DU TỬ LÊ
Trương Vũ:
Bằng hữu, những gam màu đẹp
Từ trái, Phan
Anh Dũng và ba họa sĩ, Đinh Cường, Nguyễn Trọng Khôi, Trương Vũ.
Hình chụp năm
2011. (Hình: Nguyễn Quốc Khải)
Trong
phần “Phụ chú” bài viết về cố giáo sư, nhà văn Cung Giũ Nguyên (từ trần ngày 7
Tháng Giêng, 2008, ở Nha Trang, thọ gần một trăm tuổi); tác giả “Đuổi Bóng
Hoàng Hôn” cho biết, ông thay mặt “Trung Tâm Cung Giũ Nguyên” ở hải ngoại, đọc
điếu văn người thầy cũ của mình, có đoạn:
“…Học
trò thầy rời mái trường đã lâu lắm rồi, hầu hết đầu đã bạc, vậy mà âm vang
những câu chuyện hay bài học ‘ngoài môn học,’ hay những lời giảng về cách nhìn
cuộc đời, cách nhìn một thế giới rộng lớn hơn cái không gian nhỏ bé của mình
hay vượt ngoài cái không gian hạn hẹp của mỗi đời người, dường như vẫn còn đâu
đó
Bài
học nhiều lắm. Chúng con chỉ muốn nhắc lại ba bài học chính của thầy, được nhắc
đi nhắc lại rất nhiều, mà chúng con phải học mãi trong suốt cuộc đời mình.
Những bài học ngỡ rằng đơn giản nhưng thật không dễ học… Nhắc lại ở đây như một
lời biết ơn trước khi vĩnh biệt thầy:
‘Hãy
luôn nhìn về tương lai. Hãy luôn làm việc hết mình và không ngừng học hỏi. Hãy
nuôi hy vọng.’
Thời
gian mấy mươi năm qua, học trò thầy và cả chính thầy, đã trải qua bao thăng
trầm. Càng thấm thía với những lời dạy này…” (“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 150, 151)
Cũng
ở phần “Phụ chú,” nhà văn Trương Vũ ghi:
“…Hiện
diện trong tang lễ có một thiếu phụ cầm lư nhang đi trước quan tài. Thiếu phụ
này là con gái ông với nhà văn NTH, kết quả một mối tình lãng mạn và đầy sóng
gió vào cuối thập niên 1950…”
(“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 150)
Họ
Trương không chỉ trân trọng người thầy cũ, mà ông còn cho thấy tính ân cần,
trân quý một số bằng hữu, ở những năm, tháng sau 1975 của ông, nơi quê người.
Thí
dụ tình bạn giữa ông và họa sĩ Đinh Cường. Trong bài “Lá Mùa Thu,” họ Trương
viết:
“Lần
đầu tiên tôi gặp Đinh Cường là một buổi xế trưa đầu Hè 1974. Tôi và Lê Thành
Nhơn ra phi trường Nha Trang đón Cường về nhà, chuẩn bị cho một cuộc triển lãm
cá nhân do Đại Học Duyên Hải tổ chức. Chúng tôi trở thành bạn thân từ đó (…)
Sau
1975, Đại Học Duyên Hải không còn nữa. Lê Thành Nhơn đi tị nạn ở Úc, sau đó tôi
đi Mỹ. Hơn hai mươi năm sau tôi mới gặp lại Cường, chị Tuyết Nhung và các cháu
sang định cư ở Virginia. Từ đó, chúng tôi gặp nhau khá thường xuyên. Tôi ngờ
rằng đời sống ở Mỹ có thể tốt cho các cháu nhưng không chắc nó hợp với Đinh
Cường, vốn sống nặng về nội tâm, quen gần gũi với bạn bè thân tình từ thời còn
trẻ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy được nơi Cường một thái độ nhẫn nại, thâm trầm trong
cố gắng giữ cân bằng giữa đời sống một con người bằng xương, thịt phải đương
đầu với những vấn đề rất thực tế của xã hội Mỹ với đời sống của một nghệ sĩ có
một thế giới rất riêng tư. Một thế giới của nghệ thuật, của tình bạn, của những
nơi chốn luôn gắn liền với cuộc đời mình, như Huế, như Sài Gòn, như Dran, như
Bình Dương… và của hồi tưởng, nói chung. Thỉnh thoảng, tôi vẫn cảm nhận được
nơi Cường ít nhiều chao đảo trong nỗ lực cân bằng đó.
Đinh
Cường là một tài danh lớn của hội họa Việt Nam và là bạn hiền, bạn tốt của hầu
hết họa sĩ, văn thi sĩ được biết đến, thuộc nhiều thế hệ khác nhau…” (“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 181,
182)
Nếu
không có tiết lộ của nhà văn Trương Vũ về họa sĩ Đinh Cường, có dễ ít người
biết rằng, tinh thần họ Đinh có phần “chao đảo” trong những năm, tháng tị nạn ở
xứ người; vì Đinh Cường là người rất kín đáo. Dường như hiếm khi ông cho bằng
hữu biết những cảm nghĩ thực của ông trong giai đoạn sống xa quê hương này.
Cũng
qua họ Trương, người ta biết rõ hơn, những ngày cuối cùng, trước khi từ trần
của họa sĩ Đinh Cường (1939-2016):
“…Chấp
nhận những đau đớn của Chemo như điều không thể tránh. Cho đến khi, cơ thể yếu
hẳn dần. Lúc đó, theo dõi những bài thơ trên blog Phạm Cao Hoàng, những bài thơ
được viết ra như viết nhật ký, tôi có cảm tưởng nửa khuya nào bạn tôi cũng thức
dậy. Ngó qua khung cửa sổ, nhìn bóng đêm, nhìn vầng trăng. Rồi, nhìn lên kệ
sách. Rồi đi tìm những cuốn sách, những bài thơ của bạn bè. Rồi viết cho người
này, người nọ, cho những người còn sống, cho những người đã chết. Thi thoảng
còn từ ký ức phác họa vài chân dung của bạn bè. Tôi cảm phục sức làm việc phi
thường, ý chí cống hiến thanh thoát, nhưng đồng thời, tôi cũng cảm nhận được
nỗi cô đơn cùng cực của bạn. Nói như Đinh Trường Chinh, ‘cô đơn đi vào bóng
tối.’
Chỉ
trong ba năm sau cùng, Đinh Cường đã đăng 875 bài thơ cùng với một số lượng
tranh tương tự, theo ghi nhận trên blog của Phạm Cao Hoàng.
…Họa
sĩ Đinh Cường đã cống hiến cho hội họa Việt Nam một tài sản lớn. Nhà thơ Đinh
Cường đã làm thơ rất nhiều, như một cách thể hiện cái vi tế và phong phú của
đời sống, rất đặc thù.
Tôi
nhớ một câu nói đâu đó, ‘nhân tài như lá mùa thu.’
Một
chiếc lá mùa thu rất đẹp vừa rơi xuống!”
(“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 184).
Về
tình thân với nhà văn Cao Xuân Huy, tác giả “Tháng Ba Gãy Súng,” họ Trương ghi:
“Tôi
gặp Cao Xuân Huy (1947-2010) đầu tiên cách đây khoảng 40 năm, khi Huy phục vụ
tại một căn cứ huấn luyện quân nhân gốc Thượng ở Pleiku. Tôi còn nhớ vóc dáng
và nét mặt Huy lúc đó. Cao, gầy, phảng phất chút thư sinh, chút buồn, và ít
nói.
Hơn
15 năm sau, gặp lại ở hải ngoại, Huy vẫn ít nói nhưng bề ngoài thay đổi nhiều.
Phong sương, dày dạn, ngang tàng. Tác phẩm ‘Tháng Ba Gãy Súng’ đến với tôi như
một bất ngờ thú vị. Cho tới lúc đó tôi vẫn chỉ nghĩ đến Huy như một người lính
thứ thiệt, hơn là một nhà văn. Huy viết ít, ‘Tháng Ba Gãy Súng’ không nhiều chữ
nhưng đủ để tạo cho nó một chỗ đứng riêng biệt và quan trọng trong văn học Việt
Nam. Huy yêu quân đội, yêu binh chủng, yêu đồng đội vô cùng. Gần Huy ai cũng
thấy rõ. Đọc ‘Tháng Ba Gãy Súng,’ càng thấy rõ hơn. Thế nhưng, cũng trong
‘Tháng Ba Gãy Súng’ chúng ta thấy Huy yêu sự thật và trân trọng với ngòi bút
đến như thế nào.”
(“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 171)
Vào
sâu thêm bên trong con người nhà văn của Cao Xuân Huy, Trương Vũ đã cho người
đọc thấy được những nét đặc thù, như những lớp cắt tiêu biểu của Cao Xuân Huy,
đời thường:
“…Những
ai gần gũi với Huy đều biết Huy không hề hưởng ân sủng của may mắn nhưng lại
được tình thân đặc biệt của nhiều người. Gia đình, bạn bè, đồng đội cũ (…)
Dù
ít ai nghe Huy nói về vợ con nhưng những bạn bè rất thân đều biết Huy thương
yêu vợ con vô cùng. Dù Huy không sống với cha mẹ từ bé nhưng Huy yêu cha mẹ
cũng vô cùng. Đặc biệt là với cha. Tình cảm đó sâu đậm, mãnh liệt. Thế nhưng,
những vết hằn của thân phận vẫn rõ nét trong tâm tư, khiến những biểu lộ tình cảm
thường lững lờ (…) Thật ra không phải.” (“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 173)
Tuy
được gia đình, bằng hữu rất mực thương, yêu, nhưng sự kiện ấy, vốn nằm ngoài
“tiêu chí” của định mệnh. Tôi muốn nói, điều gì phải tới, cũng đã tới, dù cho
người đó là tác giả “Tháng Ba Gãy Súng.”
Ghi
lại những ngày, giờ cuối cùng của Cao Xuân Huy, Trương Vũ viết:
“Cách
đây vài tuần, sau một chuyến đi xa về, tôi được tin Huy bệnh nặng, nặng lắm, y
học bó tay rồi. Tôi liền gọi điện thoại cho Huy, chỉ nghe giọng thều thào. Tôi lặng
người. Có bao giờ trong đời tôi nghe Huy thều thào. Tôi tìm cách thu xếp ngay
những việc riêng cần thiết để bay về Quận Cam. Hai ngày trước khi tôi lên đường,
nhận được điện thoại của Trịnh Y Thư cho biết đúng 4 giờ 53 phút chiều Thứ Sáu,
12/11/2010, Cao Xuân Huy đã từ biệt vợ con và vài bạn bè thân nhất đang ở bên cạnh,
bình thản đi vào nơi vô tận…” (“Đuổi Bóng Hoàng Hôn,” trang 172, 173). (Du Tử
Lê)
Nguồn: Báo Người Việt, California, 19.7.2019
Nguồn: Báo Người Việt, California, 19.7.2019