“Luôn bắt đầu bằng một hình ảnh.
Điểm xuất phát phải là một hình ảnh trong đầu mà tôi muốn người đọc nhìn thấy. Hình
ảnh ấy mang một xúc động, một cảm giác mà tôi cố gắng tường thuật trên giấy.
Tôi chưa rõ nội dung khi bắt đầu viết, tôi không biết liệu sẽ tạo ra một câu
chuyện hai trang hay một trăm năm mươi trang, hay cuối cùng sẽ không thành gì hết
– chỉ một đoản thiên rồi không đi đến đâu, không khai mở điều gì…”
Eduardo
Halfon, cách đây nhiều năm kể về cách hình thành văn bản của chính mình. Halfon
chuyên truy lùng căn cước di dân qua trôi giạt rồi tìm về cội nguồn bị áp bức. Có
gì giống giữa Trương Vũ với Halfon, một nhà văn Do Thái sinh tại Guatemala?
Giống ở sự trôi giạt. Sự ly tán gia đình. Nhìn cách này, Trương Vũ gần với Halfon: “Nhiều thứ đã đi vào quá khứ nhưng vẫn để
lại những dấu vết sâu đậm trong tim mình. Tôi muốn nói về một câu chuyện thật,
được kể lại để làm nền cho tác phẩm The
Bridge on the Drina (Chiếc Cầu trên sông Drina) của nhà văn Nam Tư
(Yugoslavia) Ivo Andric’, người đoạt giải thưởng văn chương Nobel 1961. Tác
phẩm lấy bối cảnh của thành phố Visegrad của Bosnia từ thế kỷ 16 trở về sau.
Đây là nơi thường xuyên chứng kiến những tranh chấp tàn bạo giữa hai đế chế Thổ
và Áo-Hung, và cũng là tranh chấp giữa Hồi Giáo với Thiên Chúa Giáo (gồm Công
Giáo và Chính Thống Giáo) liên tục suốt 400 năm. Để ngăn chận sự phát triển của
Thiên Chúa Giáo, người Thổ tổ chức bắt cóc những đứa con nít thuộc gia đình
Thiên Chúa Giáo, thường là những gia đình nghèo, đưa sang vùng cai trị của Thổ,
bên kia sông Drina. Những đứa bé này được cải sang đạo Hồi và lớn lên như người
Thổ. Rất nhiều bà mẹ đưa con đi chợ với mình, quay nhìn lại không thấy con đâu,
rượt theo kẻ cướp cho đến bờ sông Drina, dừng lại, ngơ ngác nhìn theo chiếc phà
chở con qua sông. Lúc đó, phà là phương tiện duy nhất để qua sông. Bên kia là
vùng cai trị của đế quốc Thổ.
Thời gian đầu ở Mỹ, cả gia đình tôi còn lại Việt Nam. Hình
ảnh những bà mẹ đứng ngơ ngác bên này sông Drina luôn ám ảnh. Có nhiều đêm, tôi
nằm mơ thấy dẫn các con đi chơi, đang ngồi ăn uống vui vẻ, chợt nhìn lại không
thấy con mình đâu.” [Trương Vũ/ Mưa Ướt
Vị Thành]
Halfon không khác,
trong sự phát tán: “Bốn ông bà tôi sinh
ra: một ở Liban, một ở Ba Lan, một ở Ai Cập và một ở Syrie. Tình cờ tất cả đều
đến Guatemala vào giữa thế kỷ 20, bằng lang thang du mục không có gì khác ngoài
Do Thái giáo. Nhưng tôn giáo không đủ lấp mất mát và ngơ ngác. Họ đánh mất
người thân trên các lục địa khác. Đánh mất vì nhiều lý do mà tôi chưa biết hết.
Khổ đau và cô độc thì tôi đã nhìn thấy trong mắt họ.”
Eduardo Halfon và Trương Vũ còn chung cách hình thành văn bản từ một hình ảnh.
Ở Halfon, là trận nắng: “Khi viết Tu
Viện, hình ảnh mà tôi có trong đầu là cảm giác khó chịu của một ngày về đến
Israël, không muốn về, nhưng bị thúc đẩy bởi một thứ bổn phận đầy phiền toái
bắt buộc tham dự đám cưới của chị mình. Bên trong tấm ảnh ký ức còn tất cả sức
nóng ngột ngạt của sân bay Tel Aviv. Là hình ảnh đầu tiên khi tôi đặt bút viết.”
[Eduardo Halfon/ La Fiction m'aide à passer
de l'Individuel à l'Universel].
Ở
Trương Vũ, là trận mưa: “Tôi nhớ những cơn mưa ở Việt
Nam, Nha Trang hay Sàigòn.
Mưa Sàigòn thường đến ào một cái rồi ngưng. Mưa Nha Trang kéo dài lâu hơn, nhiều
khi dầm dề, và cái cảm giác ướt át lành lạnh nó để lại thường dai dẳng. Tôi nhớ
những buổi tối, ở xa về, tôi lang thang trên bãi biển dưới mưa, nhiều đêm mưa tầm
tã vẫn không muốn về. Tôi nhớ những ngày còn ở trung học, ngồi trên thềm nhà đọc
sách, nước mưa rơi xuống từ mái hiên, thỉnh thoảng những giọt mưa tạt nhẹ vào
người. Tôi nhớ những đêm mưa tôi dạy học trong một lớp luyện thi. Học trò từ
nhiều trường khác nhau, Lê Quý Ðôn, Võ Tánh, Nữ Trung Học... Lớp học mượn của
đình Phương Câu, trống một bên. Khi gió lớn, cả thầy lẫn trò đều ướt. Bốn mươi
lăm năm đã qua rồi, tôi vẫn còn nhớ rất rõ nét mặt một số học trò trong lóp đó.
Tôi còn cảm nhận được cái lành lạnh của nước và mường tượng âm vang tiếng cười
giòn của các em khi cố lách mình tránh mưa.” [Trương
Vũ/ Những Cơn Mưa Ngày Cũ].
Đến đây chấm dứt sự giống nhau, vì Halfon
truy tìm nguồn gốc của thảm kịch, còn Trương Vũ tìm sự lạc quan sau bi kịch. Trận
nắng của Halfon là trận nắng của thực tại bực bõ khi về quê. Cơn mưa của Trương
Vũ không phải mưa bi lụy mà mưa qua lớp học, với học trò. Halfon xây cất tiểu thuyết
trên sân phi đạo Tel Aviv của
một Do Thái kiều hồi hương, Trương Vũ xây cất tiểu luận trên nền gạch ướt mưa của
sân trường cũ. Hai tâm thức. Hai hướng đến.
Nhà văn/Họa sĩ Trương Vũ - Photo by Phạm Cao Hoàng (2016)
Tháng
5-1979 tôi đạp xe vào ngôi
hẻm trên đường Hiền Vương. Ngôi hẻm có hiệu phở đầu ngõ trông sang cây xăng dẫn
vào đường Duy Tân. Tôi đến chào thầy Lâm Ngọc Oánh. Tôi nói với thầy: “Em đến chào thầy.” Hai chữ vượt biên
không thốt ra. Thầy Lâm Ngọc Oánh nhìn tôi đăm đăm, thầy không một lần hỏi vì
sao, không một lần phát âm hai chữ vượt biên. Tháng 5-1979 là cao trào của vượt
biên bán chánh thức, các học trò của thầy thay nhau biến mất. Thầy hiểu nên
không cần hỏi và ban lời duy nhất: “Em đừng
làm gì để bản thân, gia đình và dân tộc bị khinh.” Tôi không gặp lại thầy nữa.
Tháng
5-2019 tôi nhận sách tặng của một người thầy khác: thầy Trương Hồng Sơn, bút
danh Trương Vũ. Tôi không học với thầy Sơn nhưng thầy Oánh và thầy Sơn đối với
tôi không khác lắm, cả hai là sản phẩm của miền Nam, những giáo chức tận tụy và
nhận lại ở học sinh lòng kính trọng cùng thương mến. Khác biệt là thầy Oánh ở lại
và thầy Sơn ra đi. Chính nhờ ra đi mà thầy Trương Hồng Sơn trở thành khoa học
gia rồi nhà văn, họa sĩ Trương Vũ. Nhưng thầy Sơn trở về và cho xuất bản Đuổi
Bóng Hoàng Hôn.
Vì sao tựa này?
Đuổi
theo chiếc bóng tuổi trẻ của chính mình khi bóng xế chiều tà hay xô đuổi ánh chạng
vạng để thấy mặt trời phía sau bóng tối? Đọc hết tập sách, tôi có câu trả lời:
cả hai. Chính ý nghĩa của cả hai: Mặt trời đã sau lưng vì tuổi già ập đến nhưng
vẫn còn phía trước, phía sau hoàng hôn cho một tuổi trẻ khác. Ý nghĩa này là tựa
sách. Một mặt trời của quá khứ và tương lai, từ một điểm nhìn là sân trường Việt.
Vị
trí ấy giải thích vì sao Đuổi Bóng Hoàng Hôn là một tập tiểu luận pha tùy bút. Vì sao Trương
Vũ chọn lối văn tâm tình ngay cả trong những chương thuần tiểu luận. Không hành
văn hàn lâm, không phương pháp luận giải đại học mặc dù tác giả rất am tường.
Vì là lời khuyên và tâm tư của một thầy giáo. Nếu, vẫn còn chút ít chất sư phạm
mà Trương Vũ thừa nhận: “nghề dạy học, với
thêm chút tự phụ, dần biến tôi thành một người mô phạm trong cái nghĩa nghiêm
túc và nghiêm khắc.” thì ưu điểm nằm trong cách trao đổi thẳng thắn với các
học sinh mà Trương Vũ xem đã trưởng thành, ngang hàng. Đuổi Bóng Hoàng Hôn phải nhìn ở góc độ này: 2/3 được viết cho
học trò cũ và tuổi trẻ ngày mai, 1/3 còn lại cho các bạn cũ. Trong tổng thể, vẫn
là cho tuổi trẻ.
Thể tiểu luận khá hiếm trong ngành xuất bản tiếng
Việt. Vì ít bán chạy. Vì khô khan. Đuổi Bóng Hoàng Hôn không vậy. Nhờ vào
tính chất trữ tình của giọng văn. Nhờ vào điều Trương Vũ tự nhận xét: “Sau này lên dạy đại học, tôi càng trở nên nghiêm khắc hơn
với học trò mình, với nhiều người xung quanh nhưng lại ít nghiêm khắc với chính
mình hơn.” Chính sự thiếu nghiêm khắc đó cho chúng ta những
chương Mưa Ướt Vị Thành, Nói Với Chàng
Siêu, Lá Mùa Thu, Nắng vàng Trong Rừng
Khô, Đất Còn Thơm Mãi Mùi Hương, Về Lại Sorrento.
Đuổi
Bóng Hoàng Hôn còn bật lên hình ảnh những ngôi trường. Giáo Dục Việt Nam: Những Vấn Đề Căn Bản là chương quan trọng. Trương
Vũ là nhà văn tỵ nạn đầu tiên đặt vấn đề cải cách giáo dục quê nhà, ở vào thời
điểm chưa ai bàn đến và chưa nhiều sự kiện tha hóa. Khi biết những kiến nghị, đề
nghị, hay đề xuất ngay cả của những nhân sĩ thậm chí của các công thần khai quốc
"phục viên" vẫn không được Đảng đương quyền liếc mắt, càng thấy sự
tha thiết của một giáo chức miền Nam, là thầy Trương Hồng Sơn. Vĩ tuyến 17 còn
hay mất? Thắng trận hay bại trận? Không trầm trọng. Trầm trọng là tương lai. Chức
năng của một giáo sư là đào tạo và chuẩn bị cho học sinh bước vào tương lai.
Trương Vũ, tức thầy Trương Hồng Sơn không quên điều này. Chương 7 của tập sách
là tâm huyết của thầy.
Bỏ ra nhiều công sức thâu thập tổ chức học đường
của các quốc gia Á châu, cập nhật với giáo dục Hoa Kỳ và phóng chiếu ngược vào học
đường miền Nam, Trương Vũ so sánh từng quốc gia, chỉ ra bất cập căn bản của hệ
thống XHCN và đề xuất cải cách. Ba suy nghĩ chính của Trương Vũ là Đại học tự
trị, Đãi ngộ giáo chức và Sự Tự do bình đẳng giữa sinh viên với giáo sư trên
lĩnh vực tư duy và phát kiến. Không mới với phương Tây, nhưng là hy vọng của một
thầy giáo vẫn nghĩ còn trách nhiệm với tuổi trẻ quê cũ.
“Ðiều cần ghi nhận
trong giáo dục toàn diện, không riêng gì cho Singapore, là phần đức dục phải
bao hàm tính trung thực, trong sáng, hồn nhiên; phần trí dục phải bao hàm khả
năng suy tư độc lập và tôn trọng sự khác biệt; phần mỹ dục phải bao hàm khả
năng sáng tạo và khả năng làm đẹp cuộc đời; và phần giáo dục tính xã hội phải
bao hàm khả năng biết tôn trọng tính đa dạng của cộng đồng và xã hội. […] Một nền
giáo dục thực sự phát triển con người toàn diện không thể là một nền giáo dục
nhằm phục vụ một chế độ, một quan điểm chính trị, một tập thể lãnh đạo, một
giai cấp, một tôn giáo,v.v. Lỗi lầm quan trọng nhất trong giáo dục Việt Nam lại
nằm ở điểm này. Ở miền Bắc trước khi chiến tranh chấm dứt, và ở cả nước trong
khoảng gần 20 năm tiếp theo đó, nó là một nền giáo dục của xã hội chủ nghĩa, nó
không chấp nhận những mô hình xã hội khác, những tư duy khác. Bên cạnh đó nó là
một nền giáo dục mang tính giai cấp, dành đặc quyền giáo dục cho một thành phần
của xã hội. Ngày nay, tính giai cấp quả thật đã giảm đi nhiều. Riêng về các môn
học như Triết học Mác-Lê-nin, Chủ nghĩa khoa học xã hội, Lịch sử Ðảng, Tư tưởng
Hồ Chí Minh, v.v. dù thực tế cho thấy sự thất bại không thể chối cãi của mô
hình xã hội chủ nghĩa, chúng vẫn còn là những môn học bắt buộc và chiếm một thời
lượng không nhỏ trong chương trình học và cả trong thi cử. Dù rằng, không phải
đến bây giờ mà đã hơn mười năm trước đây, các môn học này đã được xem là những
môn mà “thầy không muốn dạy, trò không muốn học”. Sự bắt buộc này kéo theo một
vấn nạn khác của giáo dục: buộc học trò chấp nhận và sống với sự giả dối và bất
công. Nhất là bất công với những triết thuyết khác, những đóng góp trí tuệ khác
trong suốt quá trình phát triển của nhân loại. Theo Quốc Việt, “Việc đưa lịch sử
đảng cộng sản, chứ không phải lịch sử quốc gia và dân tộc thành một môn học bắt
buộc là một việc không những đi ngược lại với yêu cầu của xã hội mà còn phản lịch
sử, phản dân tộc, và phản tiến bộ.” […]
Giáo dục Việt Nam cần giảm bớt
mô thức giảng dạy áp đặt và tăng cường mô thức gợi ý.
Cần giảm thiểu sự mệt mỏi của
học sinh, nhất là học sinh cấp tiểu học. Ðặc biệt, nên giảm bớt lượng kiến thức
hay thông tin trong chương trình học. Nhắm đến một hành trình lâu dài hơn của
con người. Không nên để họ gục ngã sớm về đầu óc.
Ðặt nặng vào việc đào tạo
giáo chức và dành những đãi ngộ đặc biệt cho họ. Trong trường hợp các nước đang
phát triển như Việt Nam, giáo chức phải được tuyển chọn từ thành phần ưu tú nhất
của đất nước. Trong thực tế, một thanh niên ở tuổi 18 mới bước chân vào đại học
chưa có ý niệm gì về những vấn đề như yêu trẻ, như hết lòng đào tạo tốt những
thế hệ tương lai của đất nước. Chỉ có lòng tự hào, sự đãi ngộ và vị trí xã hội
mới lôi kéo được các sinh viên ưu tú nhất vào các trường sư phạm, gần giống như
cái cách mà nước Pháp đã dành cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm của họ, hay
chính sách của Ðại Hàn như đã trình bày trên đây. Ðiều này đòi hỏi một chính
sách ưu đãi từ phía chính quyền và một thái độ yểm trợ tinh thần từ xã hội.
Ðối với các trường đại học,
ngoài việc áp dụng chương trình giảng dạy theo mô hình của các quốc gia tiên tiến
tây phương, quyền tự trị đại học cần được ban hành cho đại học Việt Nam. Thiếu
sự tự trị, đại học Việt Nam khó thể hoàn tất vai trò đào tạo trí thức của nó.
Ðây có thể là một liều thuốc đắng nếu chính trị xem đại học như một lực lượng đối
kháng nguy hiểm. Nhưng, đây lại là một điểm chuyển hướng quan trọng để những
thành phần tốt nghiệp đại học trong tương lai không mang mặc cảm nào với những
đồng nghiệp ở các nước tiên tiến, đặc biệt ở các nước Á châu vốn trước đây có
cùng điều kiện văn hóa, giáo dục, kinh tế với Việt Nam, như Ðại Hàn và Ðài
Loan. Từ điểm chuyển hướng đó, họ mới có thể đóng góp cho đất nước bằng tất cả
sức mạnh tinh thần, lòng hăng say, và niềm kiêu hãnh của họ. Ðừng nên quên một
thực tế này, một sinh viên Việt Nam nếu bằng cách nào đó ra khỏi nước, vào học
các trường đại học của tây phương, khi trở về (ngay cả khi quyết định ở lại ngoài nước) thường được coi
trọng hơn là nếu anh ta chọn ở lại với trường đại học trên quê hương. Sự kính
trọng đó phát sinh từ những điều kiện về giáo dục mà sinh viên đó được hưởng ở
nước ngoài, bao gồm những điều kiện mà anh ta hoàn toàn bị từ chối nếu chọn ở lại
trên quê hương. Ðây là một bất công rất khó giải thích.
Ðề nghị sau cùng, và có lẽ
là đề nghị quan trọng nhất, là nhà nước Việt Nam nên xem phát triển giáo dục
toàn diện là ưu tiên hàng đầu của quốc gia, xem nguồn nhân lực được đào tạo qua
giáo dục là tài nguyên quí giá nhất của đất nước. Và, khi làm chính sách giáo dục
đặt trọng tâm vào những mục tiêu lớn như đào tạo con người trung thực, có sáng
tạo, có tư duy độc lập, biết tôn trọng sự khác biệt, v.v. bên trên sự chuyển
giao tri thức. Và, quên đi những gì thực
sự không còn giá trị nữa.” [Trương Vũ/ Giáo
Dục Việt Nam: Những Vấn Đề Căn Bản]
Những điều trên, thầy Trương Hồng Sơn viết đã hai
thập niên, còn nguyên giá trị.
oOo
Đuổi
Bóng Hoàng Hôn bao gộp 8
tiểu luận với 2 điểm
sách và 10 tùy bút. Đặt
sang bên những ghi của tác giả dành cho những người bạn, rồi tùy bút kỷ niệm,
còn lại là những luận đề và kiến giải mang những chủ đề vô cùng khác biệt, tách
bạch và riêng rẽ. Thông điệp nào chung giữa chúng?
Chương 12: Trương Vũ khảo sát bối cảnh lịch sử hình thành của tạp chí
Sáng Tạo (như Lukács luôn yêu sách) với khả năng đổi mới sáng tác
của từng thành viên, từ Duy Thanh, Ngọc Dũng đến Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền
xuyên qua đánh giá công lao của Mai Thảo. Điểm gây chú ý là tác giả trình bày
chi tiết những va chạm với Nhất Linh khi Nhất Linh rời Đà Lạt cho ra mắt Văn
Hóa Ngày Nay.
Trương Vũ trích tấn
công của Duy Lam: “Không
biết rõ trong thực yế phản ứng của nhóm Sáng Tạo như thế nào đối với VHNN,
nhưng sự cọ xát phải lên đến một mức độ trầm trọng. Ðến nỗi Nhất Linh đã cho
đăng những bài công kích hay chế giễu Sáng Tạo. Một cách không công khai
như bài viết của Thu Vân trên VHNN số 3, hay tương đối công khai như
bài viết của Duy Lam trên số VHNN Giai Phẩm Xuân 1959: “...đến gần mới biết
đó là một họa sĩ của nhóm Sáng Tạo (...) Họa sĩ vẽ tài thật, tác phẩm
của họa sĩ thật thể hiện được hết tinh thần và tinh túy nội ngoại của đống rác
(...) Bước chân vào tòa báo Sáng Tạo tôi lấy làm lạ vì thấy mỗi người
đứng một góc phòng trước một bàn thờ nhỏ treo một bức ảnh bán thân. Họ làm đèn
khấn vái rất thành kính và lễ luôn tay. (...) Tôi đến sau lưng văn sĩ M.T. người
chủ trương nhóm S.T. anh cũng không hay biết. Lắng tai tôi nghe thấy
anh khấn: ‘Trời
ơi! Người là một người siêu phàm! Người là tất cả. Người ngự trị trên thế giới
này! Ta kính phục người, trọng người vô vàn!...’
Tò mò tôi nhìn lên bàn thờ
thì chợt giật mình kinh hoảng vì lạ thay anh M.T. đang lễ ảnh anh M.T.! Qua
thăm những bàn thờ khác thì đại loại đều thế cả (...)”
Rồi
đúc kết: “Thực tế, mặc dầu được sự đón nhận
vô cùng nồng nhiệt từ lúc đầu, trong sự cọ xát đó, người đọc hờ hững với Văn
hóa Ngày nay (VHNN). Tạp chí VHNN kéo dài không được hai năm thì đình
bản. VHNN quy tụ được rất nhiều cây viết có thực tài. Thế nhưng, nếu
nhìn VHNN như một vận động văn học thì ảnhh ưởng của nó trong sinh hoạt
văn học nghệ thuật của miền Nam lại rất khiêm nhường.
Ghi lại những cọ xát đó cùng
với cách kết thúc đó chỉ để nói lên một điều: miền Nam đã thay đổi nhiều lắm. Mặc
dầu rất kính trọng Nhất Linh, người đọc sách ở miền Nam không còn muốn thu mình
trong cái thế giới văn chương của ông nữa. Họ gần với Sáng Tạo hơn.
Không có gì sai trong chủ trương “văn phải dựa vào thời gian và dựa không gian
để vượt không gian”. Rất đúng là đằng khác. Tuy nhiên cái thế giới văn chương của
Nhất Linh ở VHNN vẫn còn quẩn quanh trong văn chương của trường ốc.
Ngoài văn chương cổ điển Việt Nam và Trung Quốc, nó thu hẹp trong ảnh hưởng văn
chương Pháp của thế kỷ 19 cộng với Leo Tolstoi và Dostoievski của Nga. Trong suốt
các số VHNN, người đọc không thấy sự hiện hữu của thế kỷ 20, cũng như
không thấy có dòng văn học nào khác ở thời đại này.
Vào thời điểm đó, sự khao
khát sống vượt ra ngoài cái thế giới nhỏ bé của miền Nam đã rất lớn. Những ý thức
về độc lập và bình đẳng cũng đã bắt đầu ăn sâu. Có lẽ vì vậy mà tính cách của
xã hội miền Nam và của văn học miền Nam gần với Sáng Tạo hơn là với VHNN.”
[Trương Vũ/ Vị
Trí Của Sáng Tạo Trong Sự Phát Triển Văn Học Miền Nam Sau 1954]
Trong
đúc kết này, người đọc bắt gặp lại câu kết của Chương 7 Giáo Dục Việt Nam: Những Vấn
Đề Căn Bản: “Và, quên đi những gì thực sự không còn giá
trị nữa.” — tức là trong văn
chương, phải hướng đến các giá trị phổ quát mới của thời đại, phải nhìn ra thế
giới. Phải tìm đến một mặt trời khác, đang trước mặt.
Chương 5: “Vấn đề đáng nói ở đây là sự thức tỉnh
của dân tộc Tiệp Khắc. Để nói về sự thức tỉnh này, không có gì hơn là ghi lại một
câu viết trên bức tường một hầm xe điện ngầm ở Prague: Chúng ta đã tập bay như
chim và tập lặn như cá. Có phải đây là lúc chúng ta bắt đầu sống như những con
người?” [Trương Vũ/ Mùa Đông Prague]
Vẫn
cùng một thông điệp: “quên đi những gì thực
sự không còn giá trị nữa.”
oOo
Trong 10 tùy bút, nếu Mưa Ướt Vị Thành thành công nhất ở lối văn tâm tình thì Cung Giũ Nguyên, Tác Giả và Tác Phẩm
gây tò mò. Xuống đến thế hệ thiếu niên của miền Nam vào năm 75, rất ít ai còn
biết đến thầy Cung Giũ Nguyên, ngay cả mối tình với Nguyễn Thị Hoàng.
Trương Vũ viết về thầy mình với tất cả kính trọng.
Một vị thầy thông thạo Anh-Pháp-Việt, một tiểu thuyết gia phá cách, có nhân
sinh quan và sáng tạo. Một con người đã thăng trầm từ Xứ ủy Trung kỳ sang đến Nền
Cộng hòa để cuối cùng thu mình vào “xó góc của Trần Đức Thảo”, như Louis
Althusser đặt tên cho đất Việt Cộng sản. Là học trò của thầy Cung Giũ Nguyên,
Trương Hồng Sơn cũng không thoát khỏi tao loạn: sinh ra giữa chiến tranh Việt-Pháp,
lớn lên trong nội chiến để rồi phải thành công dân Hoa Kỳ và làm nhà văn tỵ nạn.
Hai thế hệ nối nhau. Sự tan vỡ cũng liền nhau, tan vỡ này viết về tan vỡ kia. Nhưng
vẫn cố gắng giữ Chân-Thiện-Mỹ. Cố gắng gieo vào lòng hậu sinh hy vọng. Điểm này
thầy Cung Giũ Nguyên đã thành công khi trao cho môn sinh Trương Hồng Sơn.
Đọc Cung
Giũ Nguyên, Tác Giả và Tác Phẩm, người đọc cảm giác đang nhìn một miểng
chai thủy tinh đã bể nhưng còn sáng và đang phản
chiếu mảnh vỡ của một miểng chai khác, bể đã lâu, còn nằm đó. Cả hai, dưới nắng
Nha Trang, lấp lánh trên mặt cát. Cát chứa trong mình thủy tinh vì cát làm ra
thủy tinh.
Chương 14 đặc biệt mang bi kịch của hai thế hệ: đã trang bị rất nhiều
tri thức, chung khát khao vun bồi để cuối cùng bị cuốn phăng theo bão táp. Sự tan
biến ấy, hay khoảng trống không sau cuồng phong, được Trương Vũ nhắc lại nhiều
lần, bằng chính văn của Cung Giũ Nguyên: “… một vật lơ lửng trên vực thẳm, được những
sợi tơ mành của hy vọng giữ lại. Hy vọng nơi ai? Hy vọng nơi gì? Và có lý do
nào để hy vọng? Nhờ biệt lệ nào được nâng đỡ như thế này, trong thời gian có giới
hạn nhất định. Hay ta lại muốn cho thời gian còn kéo dài mãi, hay ít ra còn lâu
nữa mới chấm dứt. Bởi tánh cách đột ngột của sự việc quá rõ ràng, nhưng một mối
đầu luôn luôn phải có đối ứng tất yếu là đầu mối kia. Tuy sự quên lãng những
quy luật thường đi đôi với ảo tưởng. Dưới kia là một vực thẳm âm u cuồn cuộn…”
Thầy Cung
Giũ Nguyên hẳn am tường những
câu Pháp văn: « Toutes nos espérances sont mortes,
nous en venons à espérer en un plus grand désespoir./ Tất cả những hy vọng của
chúng ta đã chết, chỉ còn trông chờ sự tuyệt vọng lớn hơn.»
Vậy thầy hy vọng gì? Boujoum!
Qua giới thiệu của Trương Vũ, Boujoum là tác phẩm quan trọng nhất của Cung Giũ Nguyên. Nhưng trông chờ Boujoum là trông chờ gì? Không ai biết! Và Boujoum là gì? Không ai hiểu! Chính vì tương lai là điều không thể đoán ở vào thời điểm 1976-1980 khi Cung Giũ Nguyên viết Boujoum giữa một Nha Trang Walking Dead.
Nhiều
thập niên sau có thể phân tích: Boujoum đây là Boojum. Tiếng Pháp nhại âm tiếng
Anh, có thể là nhại âm bản địa Baja California; có thể là đâu đó trong trí tưởng
của di dân Tô Cách Lan. Boojum là snark. Là
con vật vô nghĩa trong trường thi Hunting of the Snark/ Chuyến Săn Snark của Lewis
Carroll. Thơ của Carroll chơi với giữa sự có nghĩa và vô nghĩa của thanh âm và
hình tượng trong ngôn ngữ. Qua trích dẫn của Trương Vũ, người đọc hồ như thấy
được cái mỏng manh rung động giữa thời này và thời khác, giữa có nghĩa và vô
nghĩa, giữa vật chất và tưởng tượng, giữa hy vọng và tuyệt vọng. Nhưng Trương
Vũ không viết nhiều về nội dung của Boujoum, vì: “nếu bạn cố gắng đi tìm cốt truyện thì không khéo bạn lạc vào một khu rừng
rậm không lối ra, cho dù sau khi bạn tin rằng bạn đã tìm được nó.” Rồi
Trương Vũ viết: “Amdo và Domicella được
tái tạo từ Vườn Địa Đàng, cùng với cái đối đãi giữa âm và dương, cái quan niệm
trong dương có âm, trong âm có dương, hoặc ý niệm đâu là chỗ bắt đầu, đâu là chỗ
kết thúc, ý niệm về chiều thời gian, lúc nào tới lúc nào lui, v.v.. Tính cách
này cũng được biểu lộ rõ rệt khi tác giả chọn hai chữ Thái Huyền cho bản dịch
tiếng Việt.”
Vậy
tiểu thuyết Boujoum nội dung là gì? Đầy bí ẩn! Như khi người ta hỏi ý nghĩa trường
thi Chuyến Săn Snark của Carroll, thì Lewis Carroll trả lời là chính ông không
biết... Thế hệ sau khó mường tượng ra Boujoum, nhưng ngờ ngợ bản thể của boojum
và snark.
Nhưng
nỗi khổ của Boujoum là đây: một cuốn tiểu thuyết muốn ra đời trong dạng vật chất
của giấy mực in để đến tay đọc giả qua ngôn ngữ mẹ đẻ của những đọc giả ấy,
nhưng dù được khen bởi một giáo sư Tây nào đó trên một tạp chí Pháp văn nào đó,
và lẽ ra được nhà Fayard xuất bản năm nào đó, đã phải lặng lẽ biến mất vì lý do
tài chánh của Fayard. Rồi Boujoum biến thành Thái Huyền được nhà Đại Nam xuất bản
tập 1 mà vĩnh viễn không có tập 2. Cũng vì lý do tài chánh... Cuối cùng các môn
sinh của thầy Cung Giũ Nguyên, nặng tình thầy trò, đã quyên góp xuất bản năm
2003. Nhưng Văn học Pháp không biết đến Cung Giũ Nguyên. Đọc giả Pháp càng
không. Riêng lý do tài chánh, thì chỉ cần nhìn vào thư mục sách đồ sộ của nhà
Fayard phồn thịnh từ 1857 là hiểu lý do ấy thuần lịch sự. Boujoum, là một thất
bại nhập vào dòng chính của văn chương Pháp.
Qua
gian truân của Boujoum, người đọc mường tượng ra những rối rắm đan chéo trong cảnh
huống của người Việt: Nhà văn Cung Giũ Nguyên dùng Pháp văn trên nền Pháp văn
ngoài lãnh thổ Pháp, rồi dịch sang tiếng Việt trên nền Việt văn ngoài lãnh thổ
Việt Nam, với cách nhìn của một môn sinh lưu vong, trong nỗ lực xuất bản của những
học trò còn tôn sư trọng đạo, hoài niệm quê quán... Chỉ riêng Chương 14 này thôi, đầy ắp những nghịch
lý của một sự tan nát.
Trương
Vũ kể: “Cách đây hơn 30 năm, các cựu học
sinh của trường trung học Võ Tánh Nha Trang tổ chức một buổi họp mặt tại trường
cũ, để thăm lại trường xưa và đồng thời cũng để tỏ lòng nhớ ơn thầy cô giáo cũ
của minh. Nhiều cựu học sinh lên phát biểu cảm tưởng. Có người cho rằng cái thời
còn đi học ở mái trường thật là tuyệt vời và ước sao mình vẫn còn cặp sách đến
trường như thuở nào. Có người tiếc rằng hồi đó mình còn trẻ thơ nên không hiểu
được lòng thương yêu vô bờ của thầy cô đối với mình, nếu bắt đầu trở lại, chắc
chắn sẽ khác đi, v.v… Nghĩ thật mà nói cũng có, nói cho đúng “sách vở” cũng có,
và nói cho phải đạo cũng có. Khi đến lượt thầy Nguyên lên phát biểu, thầy kể
câu chuyện về Orpheus trong thần thoại Hy Lạp. Orpheus là vị thần của âm nhạc.
Những bài thơ và tiếng hát của ông có khả năng cứu sống cả một đoàn thủy thủ bị
ma quỷ hóa hình mỹ nhân ngư để dụ dỗ và ám hại. Ông có một người vợ rất đẹp mà
ông rất yêu quí là Eurydice. Trong một cuộc săn đuổi vì chính sắc đẹp của mình,
Eurydice bị rắn độc cắn chết. Vô cùng thương xót, Orpheus tìm mọi cách để cứu vợ.
Nhờ tiếng đàn tuyệt vời khiến những vị thần giữ cửa địa ngục sao nhãng, ông lẻn
vào được âm cung. Cảm động trước tấm lòng và tiếng hát của Orpheus, các tử thần
đồng ý cho Eurydice đi theo ông trở lại thế gian, chỉ với điều kiện là trên đường
đi Orpheus không được ngoái nhìn lại Eurydice. Nhưng Orpheus đã ngoái lại,
Eurydice liền tan biến và mất vĩnh viễn. Orpheus trở nên điên loạn, cuối cùng kết
thúc cuộc đời mình một cách thảm khốc.
Câu chuyện thần thoại đó hầu
như ai cũng biết, nhưng những lời phát biểu của ông vào lúc đó gây cho chúng
tôi một ấn tượng mạnh về cái ngụ ý ông muốn gởi đến chúng tôi. Có điều, không
phải bất cứ bài học nào của thầy cũng được học trò mang theo ra khỏi cổng trường.
Nhưng với ông, về điều ông muốn nhắn nhủ chúng tôi, tôi tin ông sống rất thật với
nó. Tôi tin chắc thầy Nguyên có rất nhiều mất mát trong đời ông, và dĩ nhiên là
ông ý thức rất rõ về những mất mát đó, nhưng ông không bao giờ chịu để những mất
mát đó đánh gục ông. Tinh thần này bàng bạc trong những sáng tác của Cung Giũ
Nguyên. Đồng thời, trong Le Boujoum, cũng có rất nhiều bài thơ và tiếng hát biểu
lộ phong cách đó.” [Trương
Vũ/ Cung Giũ Nguyên, Tác Giả và Tác Phẩm]
Trương Vũ không kể rõ thầy Cung Giũ Nguyên muốn khuyến
cáo môn sinh điều gì? Phải chăng câu chuyện Orpheus chính là thông điệp của
Boujoum? Đừng đánh mất lòng tin vào ý nghĩa của ngôn từ vô nghĩa nhất, sau đợt
tàn phá của bạo lực Cộng sản đánh vào văn chương? Ngay cả những khi không hiểu
gì hết, vẫn phải tin vào chữ? Hay Cung Giũ Nguyên muốn nhắc những học trò đã ra
đi đừng nhìn lại, vì nhìn lại là định hình (người) và định vị (quá khứ) trong
chiều thời gian vẫn chảy tới? Đời sống là một đường thẳng tiệm tiến không có điểm
dừng, phải đi tới?
Khi
không xác định nội dung của Boujoum, có phải vì Trương Vũ hiểu rằng nếu quay
nhìn lại tác phẩm sẽ định vị Cung Giũ Nguyên trong ngữ nghĩa và định vị văn bản
kỳ lạ ấy? Phải chăng Trương Vũ cũng đã đi tìm Cung Giũ Nguyên như Carroll săn
Snark:
In the midst of the word he
was trying to say,
In the midst of his laughter
and glee,
He had softly and suddenly
vanished away —
For the Snark was a Boojum,
you see.
(Lewis Carroll, The Hunting
of the Snark)
Suốt
tập sách, Chương
Cung Giũ Nguyên, Tác Giả và Tác Phẩm là chương lạ lùng nhất. Nhưng cũng chính Chương 14, áp đáy
tuyệt vọng này, bật lên tinh thần của Trương Vũ đã cố hiểu thầy mình và đi tìm
giải đáp trong chiều hướng tích cực nhất. Trong Người Đọc Sách Với Cái Thật, Cái Giả Trong Văn, khi Trương Vũ viết: "Sức mạnh của chúng ta là ở cái đầu và con tim. Chính
những ý thức về văn minh, về tiến bộ, về tự do, về dân chủ, cùng với khát vọng
được sống một đời có phẩm cách của một con người ở thời đại này đã đánh gục chủ
nghĩa Cộng sản ở Đông Âu, chứ không phải là súng đạn", là
thành quả của Boujoum.
Thầy Cung Giũ Nguyên và cùng với gia đình Trương
Vũ tại Nha Trang
khi tác giả trở về.
Tháng
7-1994, mười lăm năm sau vượt biên tôi đạp xe vào ngôi hẻm trên đường Hiền
Vương. Ngôi hẻm có hiệu phở đầu ngõ trông sang cây xăng dẫn vào đường Duy Tân.
Tôi đến tìm thầy Lâm Ngọc Oánh. Tôi muốn nói với thầy: “Em đã không giữ được lời hứa với thầy. Em đã đi xin ăn ở đảo
Liminangcong và bị dân Phi khinh. Nhưng em đỗ tú tài và cao đẳng nhờ học tích
phân, giải tích, ma trận với thầy. Em đến để cám ơn thầy.” Tôi muốn nói với
thầy Oánh thật nhiều, là không có thầy, tôi đã bỏ học vì nhà bị đánh tư sản ở
trường về nhìn thấy phường đội đóng chốt kiểm kê từng đôi đũa và khuân đi hết
những gì quý giá… Thầy Oánh đã khuyến khích, ân cần khuyên nhũ và mở lớp dạy phụ
đạo thêm mỗi chiều cho tôi có chỗ đến và tập trung học toán không phải suy nghĩ…
Tôi muốn tâm sự với thầy, vì thời điểm 78-79 quá khắc nghiệt khiến thầy trò
không dám thố lộ nhiều và tôi có biết bao chuyện muốn kể cho thầy nghe… Nhưng
thầy Lâm Ngọc Oánh không còn ở đó, cánh cửa sắt sơn xanh im lìm.
Tháng
5-2019 đọc Đuổi Bóng Hoàng Hôn, tôi không ngừng nghĩ đến thầy Lâm Ngọc
Oánh vì toàn tập sách là những câu chuyện tâm tình giữa thầy trò, giữa thầy
Trương Hồng Sơn với sinh viên, giữa thầy Cung Giũ Nguyên với học sinh Trương Hồng
Sơn. Những câu chuyện hướng thượng, những ý cao tình đẹp, những ý niệm cao vời
về tình người, về con người với con người. Tôi thuộc thế hệ xem văn bản là chỗ
để đập nát hết các giá trị nên với tôi, Đuổi
Bóng Hoàng Hôn là một vật lạ. Sự hiếm quý đã biến mất.
Đứng
trước câu hỏi: “Hình ảnh ban đầu luôn là
tự truyện?”, Eduardo Halfon đã trả lời: "Vâng,
luôn luôn. Tôi viết về cuộc sống của tôi, thời thơ ấu của tôi, mối quan hệ tôi
có với cha tôi, ký ức về người tôi yêu... Mỗi nhà văn, bằng cách này hay cách
khác, luôn bắt đầu bằng tự truyện của mình. "Bà Bovary, là tôi", phải
không? Tự truyện có thể được ngụy trang, đeo khăn che mặt hoặc đeo mặt nạ,
nhưng người ta luôn viết bằng một phần của chính mình, về đời sống của một con người.
Trong trường hợp của tôi, không có mạng che mặt hoặc mặt nạ. Tấm khăn che mở
toang, là tôi… Tự truyện là cuộc đời của một người nhưng trong chiều sâu, tất cả
mọi người đều giống nhau. Tất cả mọi người là một người. Tôi không biết cảm
giác của người khác, nhưng sử dụng cảm xúc, lo lắng, mong manh, sợ hãi của tôi,
nếu tôi làm đúng công việc của mình, những người đọc tôi sẽ nhận ra những lo lắng,
cảm xúc, sự mong manh của họ."
Trương Vũ cũng có thể trả lời như vậy, từ hình ảnh đầu
tiên Những Cơn Mưa Ngày Cũ và về tự
truyện của mình qua thể tùy bút và tiểu luận. Đuổi Bóng Hoàng Hôn là mặt trời đã sau lưng nhưng vẫn
còn phía trước, cho một tuổi trẻ khác.
Trần
Vũ, 25 tháng 6-2019
Nguồn: Da Màu, 1 tháng 7.2019