73
tuổi, 51 năm cầm bút, hơn 200 bài thơ in trong hơn 10 tuyển tập. Những con
số này liên quan đến nhà thơ nữ người Ba Lan WISLAWA SZYMBORSKA vào
thời điểm tháng 10 năm 1996 khi Bà bất ngờ được trao giải Nobel Văn học.
Bất ngờ cho văn đàn thế giới, có thể bất ngờ cả cho
đương sự, nhưng tất nhiên tổ chức quyết định giải thưởng có lý do
về sự lựa chọn này:
“ Ở Szymborska
Viện Hàn lâm Thụy Điển muốn vinh danh một đại diện – một đại diện có
sự thuần khiết và sức mạnh lạ thường và cứng cỏi - của một quan điểm
thơ ca. Của thơ ca với tư cách là một phản hồi đối với cuộc sống, một lối
sống, của nghệ thuật ngôn từ với tư cách là tư tưởng và trách
nhiệm.” (1)
Giấy
chứng nhận giải thưởng nêu rõ :
" Giải
Nobel văn học 1996 được trao cho W.Szymborska do thơ của bà đã cho phép tái
hiện bối cảnh lịch sử và sinh học một cách chân thực đến (độ) mỉa mai
trong những mảnh thực tại của con người. "
Wislawa
Szymborska sinh ngày 2/7/1923 tại miền Tây nước Ba Lan, ở thành
phố nhỏ Bnin ( hiện nay là một khu phố của Kornik ), gần Poznan.
Từ năm 1931, bà chuyển về sống tại Cracovie, theo học văn chương Ba
Lan và xã hội học tại đại học Jagellon, từ 1945 đến 1948. Bà bắt đầu đăng
thơ vào tháng 3/1945 trên phụ trang hàng tuần của nhật báo Dziennik Polski
với bài thơ Tôi tìm từ. Những năm hậu chiến, bà tiếp tục in thơ
trong nhiều nhật báo và tạp chí. Từ 1953 đến 1981, bà tham gia ban biên
tập tuần báo Đời sống văn học, giữ mục phê bình những tác phẩm
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau : từ du lịch, ẩm thực, nghề làm
vườn và trò ảo thuật cho đến lịch sử nghệ thuật, thơ của T.S.
Eliot và Edward Lear. Szymborska còn làm cả việc dịch thơ, nhất là thơ
Pháp với Agrippa d’Aubigné ( 1552-1630 ).
Bà
là hội viên Văn Bút ( PEN ) Ba Lan. Năm 1952 bà in tập thơ đầu tiên “ Chúng ta
đang sống vì thế đó ”. Sau đó liên tục cho ra đời nhiều tập khác : “ Những
câu hỏi cho mình” ( 1954 ) ; “ Lời kêu gọi Yeti” ( 1957 ); “ Muối” ( 1962 ); “
Tuyển thơ” ( 1967 ); “Trò hề” ( 1967 ); “Thơ” ( 1970 ); “Trường hợp bất kỳ” (
1972 ); “Con số lớn” ( 1976 ); “Tuyển thơ II” ( 1983 ); “Những người trên
cầu” ( 1986 ); “Kết thúc và bắt đầu” ( 1993 ).
Bà
được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Adam Mickiewicz tại Poznan (
1995 ), và đã được tặng nhiều giải thưởng văn học : giải thưởng Goethe của Đức
( 1991 ); giải thưởng Herder của Áo ( 1995 ); giải thưởng của Hội Văn Bút Ba
Lan ( 1996 ).
WISLAWA
SZYMBORSKA (1923 - 2012)
TÔI
KHÔNG BIẾT
Trả lời
một cuộc phỏng vấn thực hiện ngay sau khi giải Nobel 1996 được công bố,
WISLAWA SZYMBORSKA cho biết bà nhìn thấy thơ ca “ở khắp nơi, ngay
cả bên ngoài các bài thơ: trong văn xuôi, phim ảnh, hội họa”. Vậy
mà trong bài “Một số người thích thơ” bà đã ngần ngại không giải thích
được :
…(Một
số người thích thơ)
Mà
thơ là gì vậy?
Bao
lời giải đáp mơ hồ vẫn còn đầy ra đấy
Thế mà
tôi không biết,
Tôi
vẫn không biết chi
Và
tôi cứ bám vào nó
Như
bám cọc cứu nguy.
“Tôi
không biết” chính là chiếc chìa khóa giúp WISLAWA SZYMBORSKA mở cửa vào
thế giới thơ ca.
“…
Tôi đánh giá cao câu nói ngắn: “Tôi không biết”. Câu nói nhỏ bé nhưng nó
bay với đôi cánh thần kỳ. Nó mở rộng những cuộc đời của chúng
ta để bao trùm những không gian bên trong chúng ta cũng như khoảng rộng
bên ngoài, nơi Trái đất mong manh của chúng ta đang treo lơ lửng.
(…)
Những nhà thơ, nếu là nhà thơ thực thụ, phải nhắc đi nhắc lại câu “ tôi không
biết”. Mỗi bài thơ là một nỗ lực nhằm trả lời câu phát biểu này,
nhưng ngay khi vừa đặt dấu chấm hết, nhà thơ lại bắt đầu băn khoăn, bắt đầu
nhận ra rằng đó mới chỉ là thứ tạm thời, hoàn toàn chưa thật là đầy
đủ. Vậy là nhà thơ lại tiếp tục thử nghiệm, và sớm hay muộn, những kết
quả liên tiếp của sự không hài lòng về bản thân mình như
thế sẽ được các nhà nghiên cứu văn học sử gom lại bằng chiếc
ghim khổng lồ và gọi đó là “tác phẩm” của nhà thơ.” (2)
Với
quan niệm đó, công việc làm thơ của WISLAWA SZYMBORSKA không
hề dễ dãi. Bà từng tâm sự rằng khi làm thơ bà chỉ dùng bút
chứ không bao giờ sử dụng máy vi tính. Nhất thiết phải có một
khung cảnh thật riêng tư. “ Tôi không tưởng tượng được có nhà văn nào
mà không tìm cho mình thanh bình và yên lặng. Thơ không thể ra đời giữa
tiếng ồn, trong đám đông hay trên xe buýt. Phải ở trong bốn bức
tường và tin chắc là chuông điện thoại sẽ không reo.”(3) Có
khi bà đang viết một bài, rồi để đó bắt đầu một bài khác. Có khi bà làm
hai bài cùng một lúc. Số bài thơ bà viết nhiều hơn số đã in. Thơ viết
vào buổi tối, sáng hôm sau đọc lại và có thể sẽ cho vào sọt rác
để sẵn ở trong phòng. Còn bài thơ mà bà hài lòng nhất thì chính
là bài bà đang định viết lúc này đây. Bà thích nên mới quyết định khai bút, còn
khi nó đã thành hình, đã được in vào sách thì hãy để nó tự xoay
xở lấy. Còn vì sao lại làm thơ ư? Chẳng phải là một sứ mạng to tát
gì. "Vào một giai đoạn nào đó trong cuộc đời, khi đã qua tuổi ấu
thơ, bạn sẽ bước vào một thế giới đầy rủi ro và trách nhiệm cá nhân,
bạn sẽ nghiệm ra rằng chẳng thể làm được gì để tránh điều đó.
Cứ làm thơ và sẽ thấy. Có khi bạn sẽ tự biết đó là thơ tồi,
mọi người sẽ chối bỏ nó. Nhưng cũng có khi bạn thành công.
(…)Có
khi tôi thực sự có nhu cầu tinh thần để nói cái gì đó tổng quát hơn
về thế giới, và cũng có khi cái gì đó riêng tư. Tôi thường viết cho
một độc giả riêng lẻ - tuy tôi vẫn muốn có nhiều người như vậy. Có
nhiều nhà thơ viết cho số đông người tụ họp trong phòng lớn,
họ sẽ cùng nhau chia sẻ. Tôi lại thích độc giả của mình tiếp xúc
tay đôi với tác phẩm” (3)
“CẢM
HỨNG KHÔNG PHẢI LÀ ĐỘC QUYỀN CỦA NHÀ THƠ”
Nét
nổi bật trong thơ WISLAWA SZYMBORSKA là ngôn từ, giản dị, cô đọng mà
chính xác; bà thường xuyên sử dụng sự hài hước, châm biếm, ngay
cả nghịch lý, để làm nổi bật nội dung sâu sắc. Đề tài ưa thích
là cuộc sống thường ngày, được kể lại một cách tinh tế, lắm khi mỉa mai,
khởi đầu cho những chiêm nghiệm có màu sắc triết lý.
Trong
bài “ Con mèo trong căn hộ trống”(viết ngay sau khi chồng bà vừa qua đời),
WISLAWA SZYMBORSKA trình diện một con mèo và cho nó lên tiếng :
Chết.
Đừng nên làm chuyện đó với một con mèo
Nhưng
mèo thì làm gì được trong một căn hộ trống ?
Leo
lên các bức tường ?
Cọ vào
những đồ gỗ ?
Khung
cảnh quen thuộc giờ sao vẫn thấy khác:
Có
vẻ như không có gì đổi thay
Vậy
mà không có gì như cũ
Không
có gì xê dịch
Vậy
mà không có gì ở nguyên một chỗ
Và
tối đến, không một ánh đèn.
Dần
dần, sự hiện diện của con mèo mờ nhạt dần :
Có
tiếng bước chân người nơi cầu thang
Nhưng
chẳng phải bước chân quen
Bàn tay ai đặt con cá lên dĩa
Nhưng chẳng phải bàn tay thân.
Đời sống riêng tư của mỗi người hiện lên qua đời sống của con mèo: một người thân qua đời và tất cả trở nên hoang vắng. Nỗi cô đơn, sự thân thuộc của sự việc hàng ngày được mô tả thông qua tình cảm và cảm nhận của con mèo, câu chuyện bắt đầu có vẻ bi thảm:
Có cái gì đó không bắt đầu
Vào đúng giờ thường lệ
Cái gì đó không xảy ra
Như đáng lẽ phải thế.
Phải chăng là sự khắc khoải về một tình yêu đã mất:
Có ai đó đã từng ở nơi này
Và bỗng nhiên không thấy nữa
Biến
mất tăm.
Nhưng
rồi mèo phải tự vệ, phải phản kháng, để khỏi đắm chìm trong
sự tuyệt vọng:
Chờ anh
về
Nếu
anh dám
Nói
cho anh biết đừng làm thế với một con mèo.
Nó
tiến gần đến anh
Dáng
bất cần, vẻ kênh kiệu,
Làm
bộ như không trông thấy anh.
Và
cuối cùng là hình ảnh khá hài hước:
Nó
đi thật chậm
Bước
chân giận dữ
Và
nhất là, không phóng nhảy lên, không kêu gừ gừ.
Hình ảnh
con mèo lạc lõng trong một căn hộ trống khắc họa nỗi cô đơn thường trực
của con người trong sự vây bủa của không gian thinh lặng giữa những người
có giao thiệp mà thiếu giao cảm. Nếu thế thì, thà là trò chuyện với vật vô
tri:
Tôi
gõ vào cánh cửa của đá.
-
Tôi đây, hãy để tôi vào.
Tôi
muốn vào bên trong
Nhìn
khắp xung quanh
Hít
hơi thở của đá.
(…)
Tôi
gõ vào cánh cửa của đá.
-
Tôi đây, hãy để tôi vào.
Tôi
hứa sẽ không ở lâu trong đó
Không
tìm chỗ nương thân
Tôi
không bất hạnh
Tôi
có một mái nhà
Thế giới
của tôi đáng để tôi quay về
Tôi
sẽ vào rồi ra hai bàn tay trắng.
(…)
Tôi
gõ vào cánh cửa của đá.
-
Tôi đây, hãy để tôi vào.
Đá
trả lời: Tôi không có cửa.
Câu
kết của bài thơ “Trò chuyện với đá” khô khốc, lạnh lùng, như một lời cảnh tỉnh
: hỡi loài người (mà ta hằng yêu dấu), hãy yêu thương nhau (đừng
để “rồi như đá ngây ngô”).
Vậy
đó, bà kể về những kinh nghiệm đau buồn mà lúc nào cũng bằng cái
giọng nhẹ tênh, thản nhiên để hóa giải, chấp nhận cuộc sống với hai
khía cạnh tương phản, buồn bã và mừng vui, thương đau và hạnh phúc, mà rốt
cuộc, lúc nào cũng kết thúc bằng một nốt nhạc vui.
Nở nụ cười,
và ôm nhau thắm thiết
Ta
cố tìm sự thân thiện hòa đồng
Dẫu
thực lòng chúng ta vẫn từng biết
Mình
khác nhau như hai giọt nước trong.
(
Không có gì hai lần )
Không
gian thơ của WISLAWA SZYMBORSKA có vẻ quen thuộc với người
đọc ở mọi nơi: đó là thế giới chung quanh, là cuộc sống thường
ngày. “Thuở nhỏ tôi chẳng ngạc nhiên về điều gì; còn bây
giờ cái gì cũng làm tôi ngạc nhiên được. Cái nhỏ nhặt nhất tôi nhìn
thấy, một chiếc lá, một đóa hoa, chẳng hạn, “ tại sao lại thế này?”, “cái
gì đây vậy?”. Và còn một động lực khác nữa là sự tò mò. Tôi tò mò
về con người, cảm nghĩ, số phận, ý nghĩa đời sống của họ.
Bà
nhìn và quan sát mọi vật không phải với con mắt trần gian và
thuật lại không với nghệ thuật của nhà nhiếp ảnh. Trong “Viện bảo
tàng” bà ghi nhận có “ những chiếc dĩa, nhưng chẳng có sự thèm ăn/
nhưng chiếc nhẫn cưới, nhưng tình yêu e chừng đã tàn lụi đâu đã ba trăm năm/
một chiếc quạt, nhưng không có sự thẹn thùng thiếu nữ/ những thanh kiếm,
nhưng đâu rồi cơn giận dữ…”.Còn nói về “Bầu trời”, bà
nhận xét: “Sự phân chia trái đất và bầu trời/ Không phải là phương cách
đúng/ để xem xét cái vẹn toàn / Chẳng qua chỉ là cho phép
sống/ với một địa chỉ chính xác hơn/ dễ dàng nhanh chóng hơn/ nếu có
khi cần phải kiếm tìm”. Chuyện “Viết lý lịch” ( kèm theo các loại đơn từ)
cũng được trình bày một cách độc đáo:
Dù
cuộc sống ngắn dài ra sao
Lý
lịch cũng chỉ nên viết gọn.
Phải
rõ ràng, chắt lọc sự kiện.
Phong
cảnh, thay bằng địa chỉ
Kỷ niệm
sơ sài, bằng ngày tháng chi ly
Bao
nhiêu mối tình đã qua đi
Chỉ ghi
lại cuộc tình đã cưới
Còn
trong số những trẻ con
Chỉ quan
trọng đứa đã sinh ra.
Ai biết anh, cần hơn là anh biết ai.(...)
Trên trời dưới đất, sự vật nào, hiện tượng nào cũng được WISLAWA SZYMBORSKA nhìn bằng cách riêng của mình:
Tôi
phải vô cùng vội vã
Để mô
tả một đám mây
Bởi
chỉ khoảnh khắc một giây
Cũng
đủ để nó đổi khác.
Đặc
điểm của mây:
Không
bao giờ lặp lại
Hình
thù, màu sắc, vị trí,
Và
cách sắp đặt bên nhau.
Không
bận tâm phải ghi nhớ điều gì
Mây
thênh thang bay qua ngàn sự kiện.
Phải
làm chứng việc gì trên trái đất?
Mây
tan ngay khi sự việc mới xảy ra.
So
với mây, cuộc sống tỏ ra vững chắc
Hầu
như trường kỳ, gần như vĩnh cửu.
Bên
cạnh những đám mây
Đá
cũng có vẻ như người anh em
Dễ dàng
tin cậy
Tuy
thật ra chỉ là họ hàng xa cách, dở hơi.
Hãy
để mọi người nếu muốn cứ tồn tại
Và
rồi sẽ lần lượt chết đi
Mây
cũng chẳng quan tâm gì
Đến
những chuyện phù phiếm đó.
Rồi
trên cả cuộc đời của bạn
Cũng
như cuộc đời dang dở của tôi
Mây
cứ lướt qua kiêu kỳ, phẳng lặng.
Mây
không bị buộc phải tan biến khi chúng ta đi xa
Mây
không cần ai phải nhìn thấy khi trôi qua.
(
Những đám mây ).
SAU
GIẢI NOBEL
Tại
buổi yến tiệc tổ chức sau lễ trao giải tại Tòa Thị chính
Stockholm vào tối 10/12/1996, khi Quốc vương Thụy Điển Karl Gustaf phát biểu
chúc mừng bà ( bằng tiếng Pháp), WISLAWA SZYMBORSKA đáp lại ngắn gọn ( cũng
bằng tiếng Pháp ):
“Không
ai có thói quen được nhận giải Nobel, và cũng không ai có thói quen bày
tỏ sự biết ơn của mình về việc đó. Trong tiếng
mẹ đẻ của tôi, cũng như trong những ngôn ngữ khác, có nhiều
từ đẹp để lựa chọn. Nhưng với tôi, vào dịp này, từ đơn giản nhất
là nghiêm túc và có ý nghĩa nhất: Cám ơn ( merci- dziêkujê).”
Từ tác
phẩm bước ra đời thường, WISLAWA SZYMBORSKA vẫn giữ phong cách riêng như
thế.
Lặng
lẽ và khiêm nhường, thông minh và sáng tạo, WISLAWA
SZYMBORSKA ở tuổi ngoài tám mươi vẫn tiếp tục sáng tác. Năm 2002, bà
xuất bản tuyển tập “Khoảnh khắc”gồm 23 bài thơ. Cùng năm đó, tác
phẩm “ Bài đọc nhiệm ý – Văn xuôi” ra đời, tập hợp những
bài phê bình của bà. Năm 2005 thêm một tuyển tập thơ nữa: “ Dấu hai
chấm”. Vẫn bản tính ưa hài hước châm biếm mà không hề hời hợt,
xuê xoa. Vẫn khuynh hướng chuyển hóa những nhận xét qua kinh nghiệm cá nhân
thành những suy nghiệm về phận người mong manh, về sự hiện diện
của cá thể nhỏ nhoi giữa bao la vũ trụ. Khó tìm thấy một nhà thơ nào
khác có nét tương đồng với bà về ngôn ngữ và tư tưởng. Phải chăng vì
điều này mà thơ của WISLAWA SZYMBORSKA đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng
khác nhau trên thế giới?
Ngày
17/1/2011 Tổng thống Ba Lan Bronislaw Komorowski đã trao tặng bà phần thưởng
cao nhất của nhà nước : Huân chương Đại bàng trắng “để ghi
nhận những cống hiến của bà cho nghệ thuật Ba Lan và những thành tựu xuất
sắc của bà trong lĩnh vực văn học”.
Chỉ
một năm sau, vào ngày 9/2/2012, cũng chính Tổng Thống Ba Lan đã đến tiễn đưa bà
tại tang lễ được tổ chức thật trọng thể với sự tham dự của nhiều quan chức
chính phủ, đại diện đoàn ngoại giao, nhiều nhà văn, nhà thơ, đông đảo bạn bè và
người hâm mộ ( bà qua đời trước đó tám ngày ). Trong những ngày bệnh nặng nằm
tại nhà riêng, bà đã đề nghị đừng ai đến thăm để mọi người có thể giữ mãi hình
ảnh của bà còn mạnh khoẻ. Theo nguyện vọng, bình đựng hài cốt của bà đã được
đưa từ nhà tang lễ đến khu mộ gia đình, nơi bố mẹ bà đang yên nghỉ. Đến lúc
này, người yêu thơ Wislawa Szymborska có thể đọc lại bài thơ Nấm mộ, như những
lời trên văn bia bà tự viết cho chính mình trước khi từ giã cuộc đời:
Nơi
đây yên nghỉ, như một dấu phẩy lỗi thời,
Tác
giả của vài bài thơ,
Người
đã được đất lành
Dành
cho cõi thanh bình vĩnh cửu,
Dù
cho thi thể kia
Chẳng
thuộc văn đoàn nào.
Và
trên nấm mộ kia,
Chẳng
có gì hơn,
Một
bài thơ tồi,
Một
loài hoa dại,
Và
con chim cú mèo.
Hỡi
khách vãng lai,
Trước
khi dời bước,
Hãy
rút trong cặp ra
Bộ
óc của máy vi tính
Và
ngẫm suy trong giây lát
Về
phận đời của Szymborska.
Xin
mượn phát biểu của nhà văn Thụy Điển Birgitta Trotzig trong diễn văn Tuyên
dương để thay cho lời kết :
“
Tôi muốn tóm tắt công việc của WISLAWA SZYMBORSKA là công việc ngôn từ làm
thay đổi sâu sắc trạng thái của thế giới. Môt công việc được tóm tắt hay
nhất bằng những lời của chính bà trong bài thơ Khám phá :
Tôi
tin ở sự từ chối tham dự
Tôi
tin ở sự nghiệp bị phá sản
Tôi
tin ở những năm làm việc bỏ phí
Tôi
tin ở điều bí mật mang xuống đáy mộ
Những
từ này bay vút lên đối với tôi vượt qua mọi quy luật
Mà
không cần tìm sự ủng hộ của những ví dụ thực tế
Niềm
tin của tôi mạnh mẽ, mù quáng và không cơ sở.
THÂN TRỌNG SƠN
(1) Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển–Birgitta
Trotzig, nhà văn, thành viên Viện Hàn lâm Thụy Điển.(Award Ceremony Speech -
Bản tiếng Anh của Rika Lesser.)
(2) Nhà thơ và
Thế giới – Diễn từ Nobel của WISLAWA SZYMBORSKA (Nobel Lecture – The Poet and
the Word – Bản tiếng Anh của Stanislaw Baranczak và Clare Cavanagh)
(3) Phỏng vấn của Dean E. Murphy, Thời báo
Los Angeles, 13/10/1996.
(*) Người
viết không đọc được tiếng Ba Lan. Những đoạn/bài thơ trong bài này đều dựa vào
các bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp.