Ảnh: Google image
Lời Mở : Nhận vật và tình tiết trong
truyện là do tưởng tượng. Xin đừng nghĩ rằng tôi nhắm vào ai, bởi vì, trước nhất
tôi cũng là một người làm thơ, cũng đã gửi bài đăng trên báo giấy, báo mạng,
trang web bạn bè và cả trên facebook của mình, nên nếu bạn nghĩ tôi đang nói về
tôi thì cũng được, nhưng tốt nhất là nên nghĩ về một nhân vật ẢO thì vui hơn.
Sinh là một người làm thơ giỏi. anh ta
có thể làm đủ loại thơ từ lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, bài nào cũng đúng vần, đúng luật.
Sinh làm thơ nhiều, cho nên anh gửi bất cứ nơi nào anh có địa chỉ, báo
ngày, báo tuần, báo tháng, báo năm, báo trang web trên mạng, và cả những người
có lập trang trên hệ thống
internet. Mỗi khi có dịp đi đến đâu, anh
ghi chú các địa danh nổi tiếng để khéo léo ghép vào trong thơ, sau đó thêm vào
một chút hương vị thương nhớ ,tình yêu gì đó, thí dụ đến Cần Thơ thì trong bài
phải có bến Ninh Kiều, Hậu Giang, đến Huế
thì phải có cầu Trường Tiền, tà áo tím, về Đà Nẵng thì thêm đỉnh Bà Nà, Cầu
Hàn... Thơ gửi tới khắp các báo đài địa
phương, Địa phương thấy nhắc đến các địa
danh riêng mà lại đang dư trang thiếu
bài, thế là gửi nhiều rồi cũng có bài được đăng. Sinh chụp lại đưa lên facebook khoe thêm lần nữa. Còn nếu
đang trên các trang báo mạng thì viết lời cám ơn, chép lại đường dẫn. Lâu ngày,
bút hiệu của Sinh cũng khá quen thuộc trong giới văn nghệ .
Nhưng làm thơ giỏi không có nghĩa là
làm thơ hay. Cũng có người bạn thân tình nói với Sinh như vậy, và dẫn chứng có
nhiều người làm thơ có khi chỉ năm ba bài mà ai cũng đọc và trân trọng, ghi nhớ, thí dụ ngày xưa như Hữu Loan , Thâm Tâm , gần
đây như cô giáo Trần Thị Lam...
Sinh thực ra không phải người ương ngạnh,
cho nên cũng có nghe, nhưng lòng riêng vẫn cho rằng thay vì làm được một bài
thơ tuyệt tác, thì làm thật nhiều thơ trong đó cũng sẽ có một bài hay chứ. Sinh
dẫn chứng như chuyện hai cô ca ve đó.
-Hai cô ca ve nào?
-Thì là chuyện kể thôi, thời quân đội Mỹ
còn đóng quân ở Việt Nam, có hai cô ca ve thuê chung một phòng. Một bữa cô A đi
về, trên tay đeo cái nhẫn kim cương 5 cara, cô B ngạc nhiên hỏi sao mày có. Cô
A trả lời tao quen với một thằng Thiếu Tá Mỹ. Cô B gật đầu, một tháng sau cô B
cũng có một cái nhẫn kim cương 5 cara. Cô A vui vẻ hỏi mày cũng quen một thằng
Thiếu Tá hả? Cô B trả lời , đâu có, tao
quen với 20 chục thằng Trung Sĩ thôi.
Bạn nghe , nổi giận. Ống ví chuyện làm
thơ với chuyện đi khách là không lịch sự.
Sinh mỉm cười, im lặng, nhủ thầm lòng
mình tranh cãi làm gì với thằng hẹp hòi đó. Nhiều lúc tụ họp bạn bè , khi chén
rượu đầy vơi, cả bọn hứng thú, ngâm thơ, hát nhạc cho nhau nghe thật là thú vị. Có điều thơ ai thì người ấy đọc, nhạc ai thì người ấy hát, chẳng ai đọc thơ người
khác vì thơ chính mình làm xong rồi bỏ đó có khi không thuộc lấy đâu ra mà thuộc
thơ người khác.
Những lúc một mình, Sinh thầm tự hỏi
làm thế nào để viết ra dược một bài thơ hay. Mà một bài thơ như thế nào là hay?. Nghĩ hoài không hiểu được. Chuyện là một
hôm ngồi đối diện với màn hình trắng toát, lòng trống không, đầu óc mơ mơ màng
màng, bỗng dung tháy gió thổi rì rào rồi từ xa bước vào một chàng thư sinh mặc
trang phục trắng theo như kiểu cách ngày xưa, đầu đội khăn, mặt đẹp như ngọc. cắp
mắt sáng , môi đỏ thật duyên dáng.
Sinh : “Vội vàng đón hỏi gần xa. Thần
tiên lạc lối đâu mà đến đây” (Kiều).
Chàng thư sinh khiêm cung chắp tay chào
lại và nói: "Vì ngài khao khát muốn gặp, nên ta khởi nhã ý tới đây hội diện, Ta
là Thi Thánh đây".
Sinh kêu lên mừng rỡ: "Ôi trời... Tôi là
người từ nhỏ đã hết lòng yêu quý và trân trọng thơ ca, trải qua sáng tác viết
xuống cả năm ba ngàn bài mà chân lý mong
tìm cho một bài thơ bất tử vẫn chưa tìm thấy. Khao khát cầu hiền, mong được chỉ
lối sang ra khỏi đường mê nay được gặp ngài thật là hữu hạnh".
Thi Thánh cười nhẹ: "Thơ không phải là vật
trang trí , mà là huyết lệ của mỗi tầng cảm xúc. Thơ chẳng phải viết ra để thỏa
lòng yêu thích, mà phải bắt nguồn và nối tiếp bởi muôn ngàn cảm xúc từ người
thưởng ngoạn, cái đó, hạ giới không nhìn được, nhưng cõi trên đong đo đếm được
từng cảm xúc thật của người ngoài đối với một bài thơ được viết ra, và ta chính là người thu thập dữ
liệu cho ghi nhận đó".
Sinh cung kính: "Thật là hay quá, xin
ngài có thể cho tôi được nghe một vài bài thơ của ngài để tôi học hỏi hay
không?".
Thi Thánh cười lớn: "Ta không làm thơ".
-Không biết làm thơ mà sao là Thi Thánh
được?
Thi Thánh nói ngọt ngào: "Thế đấy bạn
ơi, bạn cũng như nhiều người hiểu lầm lắm. Trời sinh ra một người làm thơ là cho
họ thiên khiếu hơn người về thẩm mỹ, nên họ đọc một bài thơ là lập tức có cảm
nhận được đây là bài thơ ở trình độ nào,
nhưng chia sẻ được cảm xúc, thấm thía được nghĩa tình, rung động được hàm ý.
Chuyển tải được khắp nơi, ghi nhận được trong lòng, nhớ ra được khi cần thì lại
thuộc một thành phần khác, đó là quần chúng. Trong quần chúng đó cũng có thể có
người làm thơ , nhưng khi đó họ đóng một vai khác".
Nghỉ một chút, Thi Thánh chỉ tay về
phía xa xa: "Nơi đó là một khu rừng bạt ngàn không giới hạn, tất cả những cây
trong đó là những người làm thơ từ bao đời nay, họ còn sống hay họ đã chết
không ảnh hưởng gì đến sự sống còn và phát triển của cây. Thực ra như thế này,
mỗi người khi trót làm ra một bài thơ, thì trong khu Thi Lâm đó lập tức nảy lên
một chồi tích trữ suốt một đời của một người làm thơ đó. Cho nên trong Thi Lâm có những cây cao vạn trượng,
tỏa bóng mát ra cả một vùng rộng lớn, có những cây lừng lững như bóng núi, tỏa ảnh hưởng suốt một vùng thời gian,
có những cây cao vừa tầm dáng người, cũng có hoa , có lá nhưng chỉ chưng lên gọi
cho là có chứ chẳng ai để ý tới ai , và có những cây suốt đời, suốt cả một đời
luôn vẫn không cao hơn ngọn cỏ".
Thi Thánh nói tiếp: "Ngài có muốn theo
ta đi thăm một khoảng Thi Lâm không? Ta là người chịu trách nhiệm trông nom bảo
tàng Thi Lâm, nên được phong chức Thi Thánh, tương tự như coi sóc một ngọn núi
thì được chức Sơn Thần vậy thôi, chứ không phải người làm thơ".
Thi Thánh dứt lời, đứng dậy, tay áo phất
phơ dời khỏi vị trí. Sinh thảng thốt bước theo... chỉ chút sau đã thấy mình đang ở giữa rừng bạt ngàn,
cây cao cây thấp chen nhau, có cây mỏng manh như Liễu, có cây hùng vĩ như Tùng,
có cây nghiêng theo dáng núi , có cây uốn lượn thế suối... trăm nghìn kiểu dáng
khác nhau. Có cây rậm rạm chi chít lá
non, có cây lốm đốm lá vàng, có cây lá
úa quắt queo hoặc có khi lá đã hủ nát vẫn bám vào thân. Dưới những cây đại thụ
khổng lồ, lại có rất nhiều những cây nho nhỏ, nhưng không có nắng chiếu vào nên
cây cành còi cọc... Sinh tò mò muốn hỏi nhưng chưa biết đề cập từ đâu. Chỉ
tay vào một cây đại thụ tỏa bóng rợp trời , Sinh hỏi đây là nhà thơ nào.
Thi Thánh lắc đầu: "Không phải ta muốn
dấu, nhưng thực là không thể nói ra. Những cây cao lớn như vậy là những nhà thơ
mà thơ của họ chấn động tiền nhân, bàng hoàng hậu thế, bài thơ viết ra sống
trong tim nhiều người, nên mỗi lòng xúc động một người là cây có thêm một lá
xanh non, thêm một nhánh tưởng nhớ. Cái vĩnh viễn sống đời là Tác Phẩm chứ
không phải Tác Giả. Như Ngài thấy có những cây lốm đốm lá vàng, đó cũng là lòng
cảm xúc nhưng chưa là kính phục, hay những chiếc lá mục nát là những lòng khinh
thị dè bỉu của người đời. Tác phẩm càng được nhiều lòng kính trọng yêu thương
chia sẻ thì cây như có thêm phân, thêm nước, phát triển lớn lên hùng hùng vĩ
vĩ..."
Sinh ngần ngừ một chút rồi hỏi: "Thi
Thánh có thể chỉ cho tôi biết tôi là cái cây nào không?"
Thi Thánh gật đầu: "Ở trong Thi Lâm này,
Ngài gọi tên ngài thì chẳng có ai đáp lại, nhưng nếu ngài đọc một câu thơ nào
đó thì cái cây chủ của câu thơ đó sẽ rung lên và phát ra tiếng reo để ngài nhận
diện.".
Sinh thú vị, nhưng chợt nảy ra một ý
khác , bèn đọc một câu thơ của người khác coi cái cây thơ đó rung động ra sao,
nên cao giọng ngâm lên:
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.
Đọc vừa dứt, bỗng cây cổ thụ cao lớn xanh mướt hướng tây rùng rùng chuyển
động và phát ra âm thanh như tiếng sáo trúc... Thì ra cây đó là cây thơ Nguyễn
Du.
Sinh lại đọc tiếp:
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân
trường.
Lần này thì ngay bên cạnh, cành lá một cây vạm vỡ vươn cao rùng
mình và thoát ra một âm thanh nghe như tiếng sóng, thì ra cây thơ Nguyên Sa.
Lần này Sinh dùng sức bình sinh đọc hai
câu thơ của chính mình mà chàng đắc ý nhất.
Đọc xong, chả thấy cây cao nào rùng mình, chẳng nghe tiếng động nào vọng đến...
Thi Thánh nhẹ nhàng chỉ ra phía bờ suối.
Ra đó Sinh thấy một cái cây cao chừng một thước, cũng có rung, cũng có âm thanh
nhưng rung yếu như gió thoảng và âm thanh nhỏ xíu như tiếng muỗi kêu. Trên cây
có dăm ba lá xanh, nhiều nhất là lá vàng, và mươi chồi non, chồi nào cũng héo úa không thể phát triển được.
Sinh không hiểu hết ý nghĩa lá cây nên
nhờ Thi Thánh giải thích.
- Lá xanh là tác phẩm được một người
nào đó đọc và cảm nhận được trọn vẹn ý
tình bài thơ, Lá vàng là bài thơ được đọc, được yêu thích những còn chút gì đó
người đọc chưa hài lòng, lá úa mục là những
lời chê trách chân tình của người đọc lướt qua. Cái nặng nhất là những chồi non
mà bị héo khô, đó là những bài nhận định về thơ, viết ra từ sự giả dối, hời hợt
có thể vì tình thân nên viết, có thể do nể nang nên viết, có thể do nhận tiền
nên viết, những cái đó nếu là những cảm xúc chân thật, nhận xét chuẩn xác thì
trở thành cầu nối để người sau đọc và thấu hiểu thơ hơn, thành những chồi non,
thêm lá mới, phát triển thành cành thành nhánh cho cây, thì nay lại èo uột,
thui chột, héo tàn ngay khi vừa nảy ra, chẳng những làm cây xấu đi , mà còn cho
cây khó phát triển sau này.
Sinh cúi đầu nghĩ ngợi, quay lại thì
Thi Thánh đã biến mất hồi nào. Sinh ngoái người tìm quanh, chợt vấp phải gốc
cây ngã nhào và bật tỉnh.
Nhìn lại trên bàn viết, còn đây bài thơ mới viết
hôm qua, định gửi đi cho một tờ báo nào đó. Sinh đưa tay vo tròn tờ giấy, liệng
thẳng vào thùng rác. Sinh nhủ thâm, đó sẽ là bài thơ cuối cùng.
Chính xác là Bài Thơ Cuối Cùng cho một
thời ảo vọng, viết xuống không bằng cảm xúc mà viết như một kỹ năng, viết xuống
không phải bằng niềm khao khát thiết tha nào mà chỉ là ham muốn đập cái tên của
mình vào mắt mọi người, những bày vẽ, đỏm dáng nhìn lại thấy buồn.
Kể từ ngày mai, Sinh cũng sẽ làm thơ,
làm khi có thực sự cảm xúc và nhất là làm vì muốn chiêm nghiệm cho chính mình.
Chợt bàng hoàng nhớ lại câu viết của Raine Maria Rilke trong Mười Bức Thư gửi người Thi Sĩ Trẻ Tuổi: " Đừng hỏi ai hết, không một người nào
đem đến cho ông lời khuyên giải hay giúp đỡ. Hãy tự hỏi chính ông rằng nếu người
ta cấm ông viết, có làm cho ông phải chết đi không? Nhất là, ông hãy tự hỏi vào
giây phút thầm lặng nhất trong đêm tối, tôi có thực sự cần phải viết hay không. Nếu ông có thể đối mặt với câu hỏi nghiêm trọng này như thế bằng một câu trả lời
dứt khoát giản dị “Tôi phải viết”, nếu có thể trả lời như thế thì ông hãy xây dựng
đời ông theo mối nhu cầu tâm tư ấy. Ngay trong những giây phút lạnh nhạt nhất,
hoang trống nhất, đời sống của ông phải trở thành dấu hiệu và chứng tích cho
lòng khao khát thôi thúc ấy".
Lời sau chót của người kể chuyện : "Tôi thực sự không biết rõ là sau Bài Thơ Cuối
Cùng của một thời đó, Sinh có còn làm thơ nữa hay không, nhưng tôi thấy chàng vẫn
viết miệt mài , và khuôn mặt chàng càng
lúc càng sáng rỡ, tươi tỉnh và rất thanh tịnh. Có điều cái bút hiệu ngày xưa nằm
đầy trên các truyền thông đó hoàn toàn không xuất hiện trên bất cứ báo đài nào".
Một Người yêu thơ và mê thơ từ thời thơ
ấu chắc chắn không thể thanh thản sống nếu không được làm thơ. Phải vậy không
ta?
NGUYỄN MINH NỮU
Tháng 5.2019