Egyptian Museum, San José, CA, 2019
Tôi
gửi bài, góp mặt với tạp chí Văn Học khá muộn, vào năm 1986. Vẫn đón nhận những
lá thư ngắn gửi qua bưu điện của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, khích lệ và thân
tình chia sẻ những kinh nghiệm sáng tác cho lớp đi sau (như tôi). Tôi nói khá
muộn vì trước đó tôi thường gửi truyện ngắn tới Đất Mới, Văn, Làng Văn… Tôi yêu
thích Văn Học hơn các tạp chí khác, cộng tác khá đều đặn, tới tháng 12 năm 1990
vẫn còn “chung tình”. Bấy giờ chủ bút đã là Trịnh Y Thư.
Anh
là ai? Ở xa tôi vẫn giữ một “ảo ảnh”. Không những chậm trễ khi đến với tạp chí
Văn Học, tôi còn mù mờ thông tin, chậm lụt một vài thứ khác, vẫn thường lỡ biết
bao chuyến xe. Thời gian gần đây, trong “phế tích” của trí nhớ bỗng nổi cộm tên
tuổi cũ: Trịnh Y Thư. Người cao thủ biết môn công phu phân thân: Anh là nhà
thơ, nhà văn, dịch giả, vẫn thường chơi guitar nhạc cổ điển và cũng đang tự
mình đứng ra coi sóc nhà Văn Học Press tại California, Hoa Kỳ. Như thế, dẫu cho
chậm bước, tôi tự nhủ, nếu không tìm cách lân la đến bên anh quả là một thiếu
sót lớn. Có thể bạn sẽ trách tôi dùng “ảo ảnh” với “phế tích” trong câu trên là
không chỉnh. Xin thưa: Tôi đã vay mượn chữ, “Phế Tích Của Ảo Ảnh” là nhan tập
thơ của người tài hoa Trịnh Y Thư. Bạn có nhín chút thời gian để nhàn du cùng
chúng tôi không? Xin vui lòng.
Hồ
Đình Nghiêm (HĐN): Thân chào anh Trịnh Y Thư. Thân thể người ta chia ra làm ba
phần: Đầu, mình, và tứ chi. Câu nầy nghe không ổn đối với trường hợp anh, mấy
cụ bảo “ba đầu sáu tay” e chuẩn xác hơn? Nhiều nhà quá làm khó tôi, anh hãy vui
vẻ cho phép tôi gọi đơn sơ một chữ Anh thôi nhé? Vừa giản tiện vừa bỏ bớt cái
khách sáo.
Trịnh
Y Thư (TYT): Thân chào anh Hồ Đình Nghiêm. Vâng, tôi nghe nói trong văn nghệ
tất cả là anh-em, chứ không có chú-bác hay bất cứ một đẳng cấp nào khác. Thuở
Trung học, lớp 12, môn Triết, tôi học thầy Nguyễn Xuân Hoàng. Sau này gặp lại
anh, cùng sinh hoạt văn chương ở hải ngoại, tôi vẫn quen gọi anh bằng “thầy”,
nhưng anh bảo tôi, “anh” được rồi, và tôi thấy thoải mái hơn nhiều. Về cái cụm
từ “ba đầu sáu tay” thì chắc tôi không dám nhận, bởi lúc nào cũng cảm thấy mình
yếu kém, cần học hỏi thêm. Múa may nhiều chiêu chỉ vì cái tật “đa mang” cố hữu.
Chính vì cái tật này mà rốt cuộc chẳng cái gì đến nơi đến chốn.
HĐN:
Điều trước tiên, tôi xem là quan trọng, cần đón nghe anh thổ lộ: Vào thế kỷ
trước anh là một sinh viên đi du học, biến cố 1975 xẩy ra, có thể ví von “qua
cầu rút ván”. Tâm trạng của anh lúc đó ra sao? Một người con đi xa có mong được
trở về quê mẹ đang biền biệt khuất vào bóng tối đau thương?
TYT:
Tuổi thơ tôi không có nhiều ngày vui, lẽ đương nhiên, bởi thế hệ tôi lớn lên
trong lửa đạn chiến tranh trên quê hương. Nhưng tôi may mắn nhờ sự hy sinh vô
bờ bến của cha mẹ nên không đến nỗi bất hạnh. Khi biến cố 30/4/1975 xảy ra, tôi
vẫn đang ngồi ghế lớp học tại một ngôi trường đại học xa tít mù. Tâm trạng tôi
lúc đó dĩ nhiên là hoang mang cực độ, không biết phải làm gì và thấy tương lai
vô cùng mờ mịt. Ý nghĩ nung nấu trong đầu khi đó là: Thôi, đành phải rũ bỏ quê
hương và quá khứ thôi, chẳng còn chọn lựa nào khác. Nhưng chúng ta ai cũng có quá khứ. Đối với những kẻ
lìa bỏ quê hương ra đi khi đã có chút ý thức về đời sống, về nơi chốn mình sinh
ra, cái quá khứ ấy trở nên nhọc nhằn, nặng nề gấp bội. Một quá khứ nặng khôn
kham. Chúng ta khổ sở suốt đời vác nó trên lưng như con ốc sên vác cái vỏ cứng
của nó. Nhưng nhìn vấn đề từ góc độ tích cực hơn, cái vỏ ốc đó đôi khi giúp
chúng ta chui vào làm chỗ ẩn nấp che chở mỗi khi tâm hồn chúng ta dao động,
hoang mang vì tâm trạng lưu vong hay lúc lên cơn khủng hoảng căn cước. Phần
nhiều chúng ta sống với hai quê hương: cái hiện hữu thường ngày và cái sống
trong ký ức. Điều đáng nói ở đây là sau một thời gian dài sinh sống nơi
nước ngoài, cái đau hoài hương trong lòng chúng ta dần dà phai nhạt để nhường
chỗ cho cái đau của sự lạ hoá. Sự việc biến thiên theo chiều nghịch đảo: cái
thân quen biến thành cái xa lạ, và ngược lại. Trở về thăm viếng nơi mình sinh
trưởng sau một thời gian dài xa cách, gần như ai cũng cảm thấy nỗi đau này. Nó
lạ lùng một cách tàn bạo. Dù cố gắng cách mấy người ta vẫn không thể tự đánh
lừa được cảm giác xa lạ, lạc lõng, tách rời. Mảnh đất nơi mình sinh ra biến
thành nơi chốn khác, không còn là của mình nữa. Lịch sử của mảnh đất đó không
có chỗ đứng cho mình, nó tàn nhẫn gạt mình ra ngoài lề. Lằn ranh biên giới giữa
nhớ và quên như bị xoá sạch, không còn cái gì đáng nhớ, sự lãng quên như bị sai
khiến bởi vô thức. Ký ức vẫn còn đấy trong bộ nhớ nhưng nó như bị ảo hoá, trở
nên không thực. Sự lạ hoá này cũng thật là tàn bạo bởi cùng lúc nó để hiển lộ
khía cạnh hiện sinh của thế giới con người: con người là sinh vật không có bản
nguyên, căn tính của hắn không là cái gì bất di dịch. Hắn bị ném ra ngoài thế
gian này mà không hề biết tại sao. Hắn như nhà phi hành đi bộ ngoài không gian
bị đứt dây buộc với phi thuyền mẹ và cứ thế dật dờ trôi giạt mãi về khoảng
không gian huyền tẫn mịt mù.
HĐN:
Tôi vẫn nghĩ một người cầm bút, đa số thường vin vào một lực đẩy ban đầu. Anh
có xem thơ văn, những gì mình viết ra, giúp cân bằng tinh thần hoặc lấp đi phần
nào những hao hụt, trống vắng ở hoàn cảnh sống mới?
TYT:
Tôi bắt đầu nghiệp văn rất trễ, ngoài ba mươi mới cầm bút, và suốt đời vẫn là
một người cầm bút nghiệp dư, một amatơ. Vâng, đúng như anh nói, lúc đó dường
như có một lực đẩy ban đầu cho tôi vin vào. Có thể do tôi mất niềm tin vào cuộc
sống, cần tìm lối thoát; có thể cánh cửa duy nhất cho tôi tìm về quê hương ở
hoàn cảnh lúc đó là cánh cửa chữ nghĩa tiếng mẹ. Nhưng dù gì chăng nữa, cánh
cửa đó mở sẵn cho tôi bước vào, bởi văn chương từ thuở thiếu thời đã bám trụ
tâm hồn tôi. Nhưng tôi không “vin” vào thơ văn để đứng dậy như nhà thơ nào đó
tỏ bày tâm sự. Thơ văn cũng chẳng là cứu cánh trong cuộc đời tôi. Tôi rất sợ
khi nghe người ta nói đến “sứ mệnh” của thơ văn. Qua chữ nghĩa và cảm xúc, tôi chỉ
giản dị thấy một hiện hữu tâm hồn khác nằm lấp ló đằng sau cái hiện hữu thường
ngày, và chính cái gì lấp ló, không định hình rõ rệt đó quyến rũ, thu hút tôi.
HĐN:
Bài thơ “Bóng Tối” anh làm, với đoạn mở đầu:
Đường
em đêm lầy trơn. Bóng tối
chụp
lên vai mù toả con lộ đen
tôi
bắt gặp tôi lần mò giữa
hố
sâu mê hoảng. Trước mặt
những
con đường vun vút về đâu.
Thưa
anh, sau thế hệ anh, tôi; gần như chúng ta đứng giữa “con lộ đen”. Nhìn lui con
đường chúng ta bước qua, hiu hắt một vài ánh lửa. Anh có từng buồn về một dòng
chảy bị đứt đoạn? Nói rõ ra, những người trẻ tuổi hơn chúng ta, họ “vun vút ở
những con đường khác” chẳng thèm đọc thơ văn Việt ngữ mình trải lòng? Mình đâm
ra ngơ ngác? Về đâu là một dấu hỏi lớn? Mong được nghe anh tỏ bày.
TYT:
Vâng, thưa anh, “về đâu” luôn luôn là câu hỏi siêu hình, có tính triết học. Thơ
tôi hình như bị ám ảnh bởi những câu hỏi tương tự. Thế nhưng, chúng ta chẳng
thể nào biết được những con đường ấy về đâu, bởi cuộc hành trình chúng ta đang
dấn bước là cuộc hành trình vô hạn định, vô mục đích, như kẻ thất lạc trong sa
mạc, và chỉ nhận ra điểm cuối khi chúng ta thấy cái huyệt mộ đen ngòm mở ra chờ
đón chúng ta nằm xuống với thiên thu.
HĐN:
Tôi vừa xem, rất lôi cuốn “Chuyện Tình” mà anh dàn dựng nên. Chuyện của một
người đàn ông lớn tuổi dành cảm tình cho cô bé “hậu sinh khả uý”. Trong đoạn
dẫn dắt câu chuyện ban đầu, anh viết: “…Tôi nhớ hôm đó tôi có cuốn sách mới
in và lũ bạn văn nghệ tổ chức ra mắt sách cho tôi. Tự thâm tâm tôi biết cuốn
sách chẳng ra gì, một thứ văn chương thời thượng, nhưng cái nếp ra mắt sách đã
thành thông lệ ở miền đất này và phần thưởng duy nhất dành cho người viết sách
là những lời tâng bốc lên tận mây xanh (nhưng cũng đầy giả trá).” Cho dù đó
chỉ là “sản phẩm của tưởng tượng”, nó vẫn gieo cho người đọc nghĩ tới một hoạt
cảnh trần trụi từng xẩy ra. Anh không ngại làm tổn thương những kẻ mang tâm hồn
nhậy cảm? Phát sinh ra một ngộ nhận chẳng đáng có? Nhân vật “tôi” nọ mang bao
nhiêu phần trăm hư cấu?
TYT:
Cảm ơn anh nhắc đến truyện ngắn này của tôi. Thật ra tôi viết cái truyện đó lâu
lắm rồi, đâu hồi năm 89 hay 90 gì đó, và in trong tập truyện Người đàn bà khác xuất bản năm 2010. Nhân
vật “tôi” nọ mang 90 phần trăm hư cấu, anh ạ. Truyện ngắn này chứa đựng ít “vấn
đề” nhất so với các truyện khác trong tập truyện, nhưng lại được nhiều người ưa
thích. “Vấn đề” anh nêu ra –làm tổn thương những kẻ mang tâm hồn nhậy cảm – thật
ra không đáng lo lắm đâu, bởi ai cũng nhìn ra sự thật. Tự bản chất, chuyện “ra
mắt sách” không có gì xấu, nó chỉ là hình thức PR để quảng cáo. Tôi chỉ không
chịu được khi phải nghe nhưng lời tâng bốc giả
trá của diễn giả. (Giả trá hay thành thật, nghe biết liền, chẳng thể đóng
kịch được).
HĐN:
Người ta vẫn ca ngợi tài năng, cách dùng chữ của Ngọc Thứ Lang khi chuyển dịch
cuốn tiểu thuyết “The Godfather” của Mario Puzo ra “Bố Già”. Anh là một dịch
giả, với kinh nghiệm, anh có thể chia sẻ ít nhiều những khó khăn cần vượt qua
khi tiếp cận một tác phẩm tiếng nước ngoài, hòng chuyển đổi sang Việt ngữ sao
cho thật chín mùi, gợi cảm?
TYT:
Trên các diễn đàn văn học đã có khá nhiều những nhận định sâu sắc và giá trị về
dịch thuật văn học. Tựu trung, có hai xu hướng: hoặc trung thành với văn bản
của nguyên tác; hoặc đặt trọng tâm vào yêu cầu tiếp nhận của ngôn ngữ dịch.
Theo tôi, ở thời đại của chúng ta, quan niệm đúng đắn phải là sự kết hợp chặt
chẽ giữa hai xu hướng. Mặc dù những tôn chỉ chung chung như tín-đạt-nhã kềm chế người dịch, không
cho hắn sa đà, nhưng người dịch không còn là kẻ “tra từ điển chuyên nghiệp”
nữa. Có khoảng đất trống để hắn phô diễn nét tài hoa trong sáng tạo của mình.
Câu hỏi được đặt ra là khoảng đất trống đó rộng rãi thong dong lắm không và có
giới hạn nào không? Nếu anh là Bùi Giáng thì không giới hạn nào có thể ngăn trở
anh được. Anh có thể “tương” vào cả chục câu lục bát rất ư là Bùi Giáng ngay
giữa mạch truyện của nguyên tác. Sự can thiệp tới hạn của người dịch như thế
hiển nhiên có thể làm nhiều vị học giả nghiêm túc cau mày khó chịu. Riêng tôi,
tôi thấy thú vị bởi tôi đang thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải
một cuốn sách y học. Nói như thế, dịch phẩm sẽ mang diện mạo của người dịch và
điều đó góp phần không ít vào việc tiếp nhận của người đọc. Tôi không phủ nhận
giá trị những dịch phẩm nghiêm chỉnh tuân thủ từng câu, từng chữ, từng dấu chấm
dấu phết trong nguyên bản, nhưng tính Dionysian
trong nghệ thuật bao giờ cũng hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn và tôi sẵn sàng hy sinh
cái chân lý tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu
phù ảo của cái bất toàn.
HĐN:
Sau Milan Kundera, sau Virginia Woolf, sau Charlotte Bronte, tác giả nổi tiếng
nào được anh nhắm tới để bỏ công dịch, nhằm giới thiệu văn học ngoại quốc cho
bạn bọc không thông thạo sinh ngữ thứ hai, ba?
TYT:
Philip Roth, và có thể thêm một cuốn của Kundera, cuốn The Book of Laughter and Forgetting.
HĐN:
Theo tôi biết, vào năm 2017 anh có chuyến đi thăm Hà Nội. Cảm nghĩ của anh về
lần đi xa đó? Điều gì còn tồn đọng, chưa phai trong ký ức anh? Hoặc một nỗi ám
ảnh, nếu có?
TYT:
Thật ra tôi về Hà Nội nhiều lần vì tôi vẫn còn nhiều bà con dòng họ ở đó. Tôi
có ghi nhận cảm nghĩ của mình về Hà Nội trong một bài ký in trong cuốn tạp bút Chỉ là đồ chơi xuất bản năm 2012. Với Hà
Nội, tôi là kẻ lạ. Tôi sinh ra ở đấy nhưng chẳng biết gì về nó. Chưa kịp có
chút ý thức nào thì tôi đã bị bứng gốc ném giạt về những miền đất xa lạ. Kẻ lạ
cũng là kẻ bạc tình. Kẻ bạc tình vồn vã khi đến nhưng lạnh lùng lúc ra đi. Xin
kể anh nghe một chuyện vui hoàn toàn có thật. Một hôm, ngay giữa Phố Cổ Hà Nội,
từ trong một cửa tiệm tạp hoá bước ra, tôi chạm trán một bà cụ già. Bà liếc
nhìn tôi rồi kêu lên: “Khiếp! Cái ông Tây này sao mà béo thế!” Tôi mỉm cười khẽ
bảo cụ: “Thưa cụ, cháu là người Việt mình đấy ạ.” Bà cụ lại kêu lên: “Ơ, chúng
mày ơi! Ông Tây này biết nói tiếng Việt!” Đấy, với Hà Nội, tôi là một ông Tây.
HĐN:
Anh có từng khách quan nhận xét, so sánh sự khác biệt giữa trong, ngoài riêng ở
mặt người viết, người đọc? Ở hải ngoại có kém sút, thua xa hay vượt trội?
TYT:
Thật tình tôi không đủ khả năng và thẩm quyền để trả lời anh câu hỏi này. Tuy
nhiên, tôi rất thích đọc Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương. Tạ Duy Anh, và đôi
ba người khác. Điều đáng lưu ý là ở trong nước người đọc vẫn nhiều, công nghệ
và kinh doanh ấn loát sách văn học tuy có sút giảm nhưng không đến nỗi chết thê
thảm như ở hải ngoại. Cuốn Đời nhẹ khôn
kham tôi dịch xuất bản năm 2018, đến nay đã tái bản lần thứ ba.
HĐN:
Tôi tin chắc, anh là một người bận rộn. Giữa ba thể loại: Làm thơ, viết truyện
ngắn, chuyển dịch tác phẩm ngoại quốc. Anh “mặn nồng” món gì nhất? Thích “ăn
nằm” với thứ gì? Tôi hỏi thế vì cá nhân tôi thì mê được dịch tiểu thuyết ngoại
quốc nhưng bất tài, chẳng am tường tiếng tây tiếng u, không thể trao hồn vía
cho chữ nghĩa.
TYT:
Tôi thích “ăn nằm” với cả ba, anh ạ. Như tôi trả lời anh ở câu đầu tiên, tôi là
kẻ “đa mang”, cái gì cũng thích mân mó nhúng tay vào. Gần đây tôi còn viết
“điểm sách”, nhưng đây chỉ là nhu cầu do làm xuất bản thôi chứ tôi không có
tham vọng trở thành nhà phê bình. Hơn nữa, làm nhà phê bình sẽ mất bạn, tôi
nghe ông Hoài Thanh bảo thế.
HĐN:
Xin anh vui lòng nói qua một chút về Văn Học Press. Những khó khăn hoặc những
tiêu chí mà Văn Học Press tự đề ra. Anh có quan ngại tới sự bành trướng khó
chống đỡ mà internet đang hoành hành, nhà nhà đều chí thú cắm đầu cắm cổ vào?
Điều đó khiến sách (in giấy) bị ghẻ lạnh, thua lỗ?
TYT:
Thời đoạn vừa qua chúng ta chứng kiến sự chuyển đổi hệ
hình có tính tất yếu trong văn học Việt Nam hải ngoại: gần như toàn bộ nền văn
chương được
đưa lên mạng. Kỳ thực, ít ai có chọn
lựa nào khác trong hoàn cảnh một cộng đồng lưu vong, rời rạc, thiếu thốn. Mặc
dù chưa phải là cái gì tuyệt hảo, bởi vẫn có những nhược điểm không tránh nổi, văn
chương mạng giải quyết được nhiều vấn nạn, thí dụ như giúp thơ ca có chốn “nương tựa” vì nếu không, thơ không biết bám víu vào đâu để tiếp tục
cuộc hành trình vô hạn định của mình. Và quả tình nó cũng bật mở nhiều khía
cạnh thú vị khác, như sự ra đời và lớn mạnh của thể loại truyện chớp. Văn
chương mạng đáp ứng được yêu cầu năng động của một thế giới đang bay với tốc độ
ánh sáng. Nó sẽ ở lại với chúng ta trong thời gian lâu dài sắp tới, nếu không
muốn nói là vĩnh viễn, dù anh có chấp nhận nó trong ngôi nhà riêng của mình hay
không. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ người viết, tôi không cảm thông trọn vẹn với một nền văn học
hoàn toàn dựa vào Internet. Viết trên mạng giống như hành động ném viên sỏi
xuống mặt hồ, viên sỏi biến mất tăm mà mặt hồ chỉ gợn lên dăm ba làn sóng nhỏ
rồi lại lặng im như cũ. Có lẽ đó là bản chất của Internet. Với một liều lượng
thông tin quá tải, cái gì cũng trở nên nhanh, ngắn, gọn. Như một món ăn nhanh,
đọc xong quên ngay, thậm chí khi đọc cũng chỉ đọc lướt. Thêm nữa, văn chương
mạng thiếu những công trình dài hơi, gần như không có tiểu thuyết, chất lượng
bài vở không đều. Nói một cách ngắn gọn, Internet tốt cho mục đích thông tin
hoặc diễn ngôn, tranh luận, nhưng quả tình không mấy tốt cho văn học. Sự thật
là cầm cuốn sách trên tay đọc vẫn là cái thú của hầu hết chúng ta hiện nay khi
đọc một tác phẩm tầm vóc. Tất cả những lý lẽ có tính biện chứng
trên cộng thêm sự khuyến khích nhiệt tình của nhiều bằng hữu văn nghệ và các
bậc đàn anh như nhà văn Ngô Thế Vinh trong thời gian qua đã khiến tôi uống
thuốc liều quyết định gầy dựng lại nhà xuất bản Văn Học. Thêm một lý do nữa mà
có thể xem là quyết định tối hậu cho đề án, đó chính là sự khả thi thành lập
một NXB trong thời điểm này. Với phương tiện ấn loát và phát hành hiện đại theo
sát nhịp đập kinh tế thị trường thế giới của các tập đoàn kinh doanh, việc thực
hiện một NXB bỏ túi như thế không còn là cái gì bất khả như cách đây mươi năm. Nói như thế nhưng tôi không chủ trương quay về thời kỳ
sách báo in giấy cách đây vài ba thập kỷ ở hải ngoại. Muốn cũng không được. Tôi
chỉ mong ngành xuất bản được tái phục ở mức độ nào đó để hỗ trợ cho sinh hoạt
mạng trong thực tế vẫn tiếp diễn. Vấn đề nhức nhối chính vẫn
là người đọc. Ở thời đại thông tin điện tử, làm thế nào để người đọc chịu bỏ
tiền ra mua sách văn chương về đọc là cả một vấn đề cam go. Người Việt là một
dân tộc yêu thơ như người Nga, nhưng thi sĩ Nga sống được nhờ xuất bản thơ, còn
thi sĩ Việt bỏ tiền túi in thơ chỉ để tặng bàn bè, thân hữu. Văn xuôi cũng
chẳng khấm khá hơn bao nhiêu. Dù có tránh né, tế nhị bao nhiêu thì đó vẫn là sự
thật, một sự thật khá đau lòng. Lý do vì sao thì đấy là cả một câu chuyện phức
tạp, lôi thôi, chẳng dễ gì phân tích cho ngọn ngành trong một bài phỏng vấn
ngắn.
HĐN:
Anh thích chơi guitar. Anh đã từng mang đàn ra trình diễn trước đám đông? Và
như thế, vì giai điệu trầm bổng, dồn dập sẽ dẫn dụ, khiến xuất hiện một “cô bé”
khác. Và như vậy bạn đọc bốn phương được đọc thêm một chuyện tình ăn đứt Trương
Chi Mỵ Nương, hình thành dưới giọng văn nửa hồn nhiên nửa vô ngại, chút thơ
mộng chút lãng mạn được ký tên Trịnh Y Thư.
TYT:
Thật ra tôi “mặn mà” với âm nhạc trước khi “ăn nằm” với văn chương, nhưng rất
ít khi tôi xuất hiện chơi đàn trước công chúng vì “khớp” sân khấu. Trên sân
khấu không bao giờ tôi đàn được một khúc nhạc đúng ý như khi đàn ở nhà một
mình. Hơn nữa tôi cũng sớm nhận ra con đường âm nhạc nhiều chông gai quá, tôi
không phải thiên tài, giỏi lắm chỉ là một anh “thầy đờn”, bởi thế mặc dù được thụ giáo với nhiều diệu
thủ ghi-ta thập niên 70, 80, cuối cùng tôi bỏ nghề.
HĐN:
Tôi tự hứa với lòng, rằng nhà quê (chữ của Mai Thảo) thì cũng chừng mực nào đấy
thôi, thế nào cũng đeo ba-lô đi bụi qua California một lần cho thoả. Nơi mà tôi
quen biết bao người nhưng chưa một lần gặp mặt. Sẽ thực thụ đứng gõ cửa nhà anh
để vào xin chén rượu nồng. Giấc mơ vẫn còn đó, thực tế bày ra là giờ này đành
tạm “cắt sóng”. Cảm ơn anh Trịnh Y Thư đã vui lòng chuyện trò với một đứa ở xa
như tôi. Những tâm sự của anh, dù chỉ phác hoạ ra một thời điểm, tâm tình ấy sẽ
là tư liệu quý giúp cho những ai muốn hồi tưởng về sinh hoạt của người cầm bút
tha phương. Tôi tin vậy và mến chúc anh luôn sức khoẻ, sáng tác được những điều
tâm đắc.
TYT:
Cảm ơn nhà văn Hồ Đình Nghiêm đã cho tôi cơ hội phát biểu linh tinh. Những gì
tôi nói ở đây chẳng qua chỉ là ý kiến ý cò của một trong bảy tỉ khối óc trên mặt
hành tinh này, chẳng có chi đáng nhớ.
– Hồ
Đình Nghiêm
(Thực
hiện bằng điện thư, tháng Năm, 2019.)