Tôi
gặp anh giữa lúc cả hai đang ở rất gần bến bờ của “cõi trời quên”. Cho nên,
những điều cần nói, muốn nói, chỉ có thể tìm thấy trên những trang viết mà
thôi.
Tập
truyện Trên Đồi Là Lô Cốt với 14 mẩu chuyện nho nhỏ, theo cách nói của anh, là
quá thật, nhưng chẳng phải hồi ký, mà cũng không phải nhật ký. Đó là những
thoáng hồi niệm rất mong manh, mỏng, nhẹ và đẹp như những phiến mây nhỏ trên
nền trời ký ức.
Anh có lối viết cô đọng, nên mỗi chữ mỗi câu nhỏ xuống hồn ta như những giọt sương đêm. Trong tĩnh lặng tưởng chừng có thể “nghe được tiếng cỏ mọc”, tôi đọc anh thuở bốn mươi năm cũ và bồi hồi thấy mình trẻ lại một cách đau đớn.
1.Trên đồi là lô cốt
Chắc
nhiều người cũng như tôi, buổi đầu rất dị ứng với cái lô cốt. Trên đồi là cỏ
mượt, là nắng tháng giêng, là tóc gió ai bay, là cánh diều tuổi nhỏ…là gì gì
cũng được, nhưng là lô cốt thì nản đến nỗi hết muốn đọc. Đã mấy lần mở sách ra
rồi gập sách lại.
Nhưng
bạn già còn lại mấy ai, có thù ghét cái lô cốt ấy bao nhiêu, rồi cũng phải đọc.
Cũng như anh, biết là bên trong ấy nóng lắm, nhưng cũng thử chui vào. Hóa ra
cái lô cốt ấy là chứng tích cho một cuộc tình của tuổi mới lớn. Chàng thuở ấy,
có lẽ 15, lặng lẽ yêu nàng tuổi 17. Tình yêu tinh khôi và vô nhiễm. Yêu như hạt
mầm nhú lên trong đất, như cỏ mọc trong đêm. Vậy mà nàng chết đi một cách tức
tưởi, chết vì lạng quạng tránh bọn con trai thô lỗ để rồi húc phải một thứ còn
thô lỗ hơn, đáng ghét hơn là chiếc xe nhà binh.
Vậy
là đã rõ. Những thứ không mời mà đến, hết lô cốt đến xe nhà binh, cứ lù lù xuất
hiện trên đất nước Việt Nam này, dù trên nguyên tắc đã hòa bình.
Cái
chết của nàng thật phi lý. Cũng như cái chết của 6 con người trong lô cốt bị
giết bằng dao rựa trong đêm tối trước giờ đình chiến. Chẳng những phi lý mà còn
hạ tiện, thấp hèn. Đó là cuộc ám sát. Không chỉ 6 con người đang khấp khởi chờ
đợi phút giây hòa bình, mà của nhiều triệu con người vô tội và rất yêu hòa bình
của cả hai miền nam, bắc.
Phi
lý, đúng, nhưng không phải thứ phi lý buồn nôn của Sartre. Một phi lý khạc
chẳng ra, nuốt chẳng vào. Tôi, thuở ấy từng viết: ôi máu me của cuộc tương
tàn/ anh em hãy chia nhau mà uống. Nhưng làm sao mà uống cho nổi khi những
chén máu ấy chẳng những tanh mà còn tởm lợm vì hiểm sâu nọc độc.
Thực
ra tôi đã từng là người trong cuộc nên có hơi ầm ĩ, chứ những trang viết của
anh rất lặng lẽ. Trước cái chết của người con gái mà anh yêu thầm kín, anh chỉ
đặt môi lên tay o, muốn nói một lời mà không tìm ra lời nói. Chính vì không
tìm ra lời mà mãi đến 50 năm sau, anh hãy còn thao thức vì nàng.
Tôi
vẫn thường nghĩ, những người chết tức tưởi, linh hồn của họ vẫn còn bập bềnh
đâu đó. Họ không tan được trong nắng trong gió, không theo mưa rớt xuống đời,
mà lay lắt trong biển trầm luân như những con sứa.
Nên,
những trang viết của anh như một niềm an ủi hiển linh cho hồn sứa nọ, khi biết
rằng trên bãi cát đời, có một người thực sự là đàn ông yêu nàng đến những 50
năm và còn hơn thế nữa.
2.
Mưa qua thành phố
Những
giọt mưa trên thành phố Sài Gòn ồn ào sao nghe thánh thót, buồn và đẹp như
những giọt dương cầm. Tôi chưa từng được nghe bản Berceuse, nhưng qua những
trang viết của anh tôi tin đó là một bản nhạc ngọt ngào, vì được tấu lên bởi
một người thiếu phụ đẹp và buồn.
Có
một điều gì đó cao thượng hơn, thắm thiết hơn là tình cảm của một đứa cháu trai
đối với người thím. Bảo đó là tình yêu, cụ Đào Nguyên Phổ sẽ đánh cho gãy lưỡi.
Nhưng bảo đó không phải là tình yêu thì Bùi Giáng cười mà rằng: mẫu thân ta
vẫn cứ yêu/ huống gì o thím ít nhiều đơn sai. Vậy thì cứ bảo rằng cậu ta
yêu người thím xinh đẹp của mình thì đã sao nào. Không phải yêu người em dâu
của cha, mà là yêu vẻ đẹp kín đáo của người đàn bà đẹp trong vai người vợ của chú
mình. Yêu từ lúc úp mặt vào lòng thím ngủ cho đến khi thấy thím gói tròn một
cách duyên dáng trong chiếc áo mưa hai màu. Bên ngoài xám như nền trời, bên
trong vàng rực như nắng chiều. Có một người thím như vậy, ta sẽ không ngạc
nhiên khi biết tác giả, ngoài kịch tác gia còn là thi sĩ.
3.
Đôi guốc trắng
Thuở
ấy, tôi cũng từng viết: em mười bốn hay mười lăm tuổi nhẽ/môi rất hồng nhưng
vẫn chửa dám hôn. Tuổi 14 hay 15 là tuổi khởi sự đẹp, tuổi của con bướm vừa
thoát khỏi xác nhộng, tuổi của ngọc lan giữa đêm khuya hé nở cánh đầu. Tuổi của
nhan sắc hứa hẹn đẹp dần lên của bất cứ người con gái nào. Viết về tuổi 14, 15
mong manh và tinh khiết như thế, ngòi bút của Lữ Kiều không điệu đà áo nàng
vàng anh về yêu hoa cúc/ áo nàng xanh anh mến lá sân trường như Nguyên Sa,
không viết tóc em anh sẽ gọi là mây và áo em hai phần gió thổi một phần mây,
không nón bài thơ, không ôm cặp vở mà chỉ viết về một đôi guốc trắng. Một đôi
guốc mộc như tâm hồn mộc mạc của nàng.
Một
cô bé nào đó trên bờ Cửu Long giang. Lần đầu tiên lén làm đẹp cho mình. Chỉ dám
làm đẹp ở mỗi gót chân vậy mà vẫn bị chế là rất điệu. Nên cô phải đợi
tới chiều tối mới dám đem guốc ra sông, rửa chân thật sạch trước khi mang vào
chỉ để… đi ngủ. Bên sông nàng mơ mộng vẩn vơ như bao cô gái khác. Nàng tưởng chỉ
có riêng mình một cõi với sông nước và đôi guốc. Không ngờ có người lính gọi
nàng là cô bé, bảo thôi vô nhà kẻo lạnh. Và nàng mắc cỡ đi về chân không, bỏ
lại đôi guốc. Truyện chỉ có vậy nhưng diễn tả cực khéo tâm lý dễ thẹn dễ
quên của lứa tuổi ô mai. Truyện ngọt như nước dừa Bến Tre, như đường phèn Quảng
Ngãi. Đọc tới đâu là mát ngọt tới đó.
4.
Nước mắt
Tôi
rất thích những dòng mở đầu nhẹ như thơ. Ngày chị đi lấy chồng, chị khóc như
mưa mùa đông. Trăng hôm ấy sáng mờ giống như mặt chị vừa mới khóc xong.
Đúng là khấp như thiếu nữ vu quy nhật. Những giọt nước mắt cho dù như mưa mùa
đông vẫn không làm hoen mờ khuôn mặt sáng trăng của chị. Những giọt nước mắt
của hạnh phúc đang chờ đợi phía trước, ấm áp xiết bao, vui xiết bao.
Tôi
không có chị để biết được thế nào là nỗi buồn của đứa em trai cảm thấy mất chị.
Nhưng đọc anh, tôi biết nỗi vui nồng hậu của người con gái khi tìm được bến bờ
của hạnh phúc. Cuộc sống lúc đó, cho dù là đang chiến tranh, cũng đâu đến nỗi
tối tăm, là nhờ những giọt nước mắt vu quy nhật ấy.
5.
Người chờ máy bay
Một
phi công trinh sát quá dịu dàng, quá dễ thương. Một nữ sinh Đồng Khánh
trước mặt “chú” quá vụng về, quá ngây ngô. Dù có quanh co che giấu, ai cũng
biết cháu yêu chú. Không yêu sao cứ mỗi chiều thứ sáu lại thừ người đứng
chờ chú bay qua sân trường. Chờ trong hờn dỗi. Và chờ trong tuyệt vọng, vì chú
không bao giờ bay qua trường một lần nào nữa. Chú đã mất tích trong một phi vụ
trinh sát.
Chỉ
có vậy thôi mà sao câu chuyện buồn như trong phim Les dimanches de Ville
d’Avray.
Cô
bé đó 40 năm sau dù mặc áo cư sĩ, nhưng trong tiếng ì ầm của hàng trăm máy bay
lên xuống không dứt ở phi trường Houston, cô vẫn mơ màng nghe như có tiếng động
cơ rất đặc biệt của L.19.
Chiến
tranh trong câu chuyện này mềm như nước, chỉ một khe nứt nhỏ của mái hồn là đã
rỉ xuống rất nhiều những giọt buồn không mong đợi. Đọc xong nghe như có ai đó
vừa siết nhẹ tim ta dù trái tim già nua giờ đã xơ cứng.
6.
Giấc mơ của Thi
Một
giấc mơ rất đơn giản. Mơ có một người bạn. Vậy mà sao khó khăn đến thế. Tám vị
tiên đêm đêm với bao quyền phép vẫn không tìm được bạn cho nàng. Sau cùng, đành
nhận nàng bạn, vị tiên thứ 9.
Có
phải cùng em đi vượt biên là để đi tìm bạn? Cuộc hành trình không tới bến. Tác
giả đọc lại truyện này đã không cầm được nước mắt. Vì đó là cháu kêu bằng cậu
ruột. Còn tôi, nghe trong tiếng sóng trùng dương có tiếng kêu đắm đuối của một
linh hồn cô độc.
7.
Với một dòng sông
Tôi
có cảm tưởng đây là một câu chuyện ẩn dụ. Ông già nọ rất già, có thể cùng thế
hệ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Dòng sông nọ có thể là sông Bến Hải. Phải
chăng tác giả muốn dùng hình tượng một ông già vẽ tranh để cảnh báo một cuộc
tương tàn dài đến hơn 20 năm.
Dòng
sông thì dữ dội với những tảng màu xanh, màu đen, màu đỏ bệt lên nhau. Còn bầu
trời thì quang đãng và trong hiền như bầu trời ngày xuân. Và trên nền trời ấy,
một đôi mắt đen huyền phớt chút màu trắng huyền ảo, đang đăm đăm ngó xuống dòng
sông.
Đôi
mắt nào vậy? Bầu trời nào vậy? Bầu trời xanh bình yên, sao tác giả gọi là vô
lý? Hay cả ba đều vô lý? Những câu hỏi phóng vào tương lai như những ngọn lao.
Đôi mắt chứng nhân của thời đại ấy có khác gì đôi mắt của đứa bé đang thét gào
sợ hãi khi nhìn chiếc máy bay đang lao vút xuống phía mình. Lại con mắt trong
phim Les Dimanches de Ville d’Avray? Đôi mắt của Caiin ám ảnh cả Âu châu. Và
đôi mắt Việt Nam vẫn còn ám ảnh đến tận bây giờ.
8.
Người con gái và chiếc lồng chim trống
Một
người con gái đất phương Nam. Đẹp, phúc hậu.
Một
chàng trai miền Trung di cư năm 54. Câu chuyện của họ chỉ hỏi để mà hỏi, nói để
mà nói, chung quanh một chiếc lồng chim bỏ trống. Nhưng ở đây thăm thẳm nỗi cô
đơn và nhung nhớ của chàng trai xa xứ không hòa hợp được với sông nước miền
Nam. Chiếc lồng chim vì thế trở nên tưởng chừng như có điều gì bí mật. Phải
chăng con chim của tuổi ấu thời đã bay đi mất? Hay chiếc lồng ấy đựng một linh
hồn nhỏ “mang mang thiên cổ sầu”? Tâm trạng này đã thêm một lần nữa làm nhói
đau những trái tim Việt nơi xứ người.
9.
Con chim đen
Đây
là câu chuyện lạ lùng được viết ra bởi trí lực của chàng trai 22 tuổi. Một trí
lực rất hùng hậu.
Một
người mẹ với đứa bé bảo là rất ác với cha (vì nói dối và không cho cha vào nhà)
Một
người cha có con đau nhưng ơ hờ nghĩ ngợi đâu đâu. Cứ như con ai chứ không phải
con mình. Trong khi đó, một con chim đen được ông nâng niu như báu vật.
Một
đứa bé xác trẻ con mà hồn người lớn, ăn nói trịnh trọng như một nhà quý tộc.
Đứa
bé nói về một đứa bạn tên Hà đêm qua đã chết. Người đàn ông cũng bảo đứa nhỏ
chết rồi trong đêm qua. Nói trong nước mắt. Còn người mẹ lại bảo: bây giờ tôi
đã biết một đứa bé tên Hà. Nó đã bệnh và sắp khỏi. Sau cùng, dưới nấm đất mà
đứa bé bới lên xác một con chim đen hiện ra. Đó là Hà, tên của bạn nó.
Vậy
là sao? Hà là đứa bé. Hà cũng là bạn đứa bé. Và Hà cũng chính là con chim đen.
Đúng là phân thân, không phải hai mà đến những ba. Lại nữa, đứa trẻ nghe được tiếng
cỏ mọc. Ba nó bảo khi nào con nghe được tiếng cỏ mọc thì bạn con sẽ đến.
Con sẽ không còn cô đơn.
Tác
giả bảo đây là lúc anh ngập chìm trong triết học cổ Đông Tây. Thảo nào như
trông thấy con sâu của Kafka, con bướm của Trang Chu. Đúng là đọc chỉ để cảm
chứ không thể nghị. Bất khả tư nghị.
Một
truyện chứng tỏ những suy tư sâu sắc của anh về thân phận, về tuổi trẻ, về
chiến tranh mà anh viết rất hay ở những truyện tiếp theo.
10
&11. Buổi mai trắng & Cho chúng ta nhìn nhau
Hai
truyện cùng một bối cảnh chiến tranh miền Nam đang giữa lúc khốc liệt nhất. Và
cùng một giọng văn u uất đậm chất suy tư. Những câu văn ở hai truyện này như có
con mắt. Chúng lom lom nhìn ta đến nỗi rơi rụng giật mình.
Những
người trẻ tuổi chưa uống được cốc rượu nồng say của cuộc đời đã bị ném một cách
không thương tiếc vào cuộc chiến. Cho dù có cầm súng hay cầm phấn thì cũng tan
tác mỗi người một ngả. Họ gặp nhau trong men rượu đắng chát, trong dục tình bải
hoải, nhạt nhòa. Gặp nhau không tiếng cười. Gặp nhau để thấy ngày mai là
ngút trời bủa vây tuyệt vọng. Trong đêm đen và buổi mai trắng, họ ngật ngừ bềnh
bồng để rồi một ai đó yên lặng đứng lên kề súng vào đầu bóp cò. Cái chết của họ
không bi tráng như Kinh Kha, Hamlet. Nhưng họ chẳng đáng trách. Mà cũng chẳng
đáng thương.
Thuở
ấy họ còn được tự do với niềm đau và nỗi tuyệt vọng tận cùng của họ. Biết mình
đau, biết mình chán. Tức là biết mình giống khỉ mà không phải khỉ. Vẫn còn là
con người.
Cả
một thế hệ ấy hôm nay ai đầu cũng đã bạc. Họ âm thầm vác tấm bia mộ của chính
mình, đi tới tận cùng huyệt cũng của chính mình. Vậy thôi, cỗ xe tám ngựa của
lịch sử ào ào băng qua, họ chỉ là hòn đá vô tội dù rất yêu hòa bình thì cũng
không làm sao ngăn được.
Nhớ
lại một thuở đất trời nổi cơn gió bụi mà rơi nước mắt. Nhưng ngẫm ra vẫn còn
may. Thế hệ bây giờ không biết khóc. Chỉ có rống lên như sói tru trên cao
nguyên lạnh buốt. Những con sói lạc bầy.
12.
Sợi dây điện
Đây
là một truyện tác giả thử viết theo giọng điệu miền Tây. Tôi nghĩ là có thể xếp
sau Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc.
Một
ông già nhặt được sợi dây điện. Đang vẩn vơ suy nghĩ thì gặp thằng con đi… ỉa.
Rồi hai cha con cùng về. Người cha đem rượu ra uống một mình. Thử thằng nhỏ có
biết uống không nào ngờ tửu lượng của nó cũng khá. Lại càng khá hơn nữa khi nó
đòi đi lính nghĩa quân. Hỏi: ngon à! Chừng nào đi? Nó bảo còn để cưới vợ đã.
Hỏi sao cưới sớm thế, nó bảo con nhỏ chửa đã ba tháng…
Cứ
thế, câu chuyện về xóm làng, cha con, chồng vợ theo cái dây điện từ thời Tây mà
phăng ra. Ông già đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Còn người đọc như
thấy tác giả đang bóc từng lớp vỏ như bóc củ hành để sau cùng lộ ra cái lõi dục
tình của đồng quê nội cỏ.
Hãy
xem tác giả viết một cách bóng bẩy rất bất ngờ: Thằng con lão, con Huệ cũng
chao qua chao lại dưới ánh đèn hỏa châu, một đêm nào đó cách đây ba tháng. Cái
ánh sáng vàng khè trên những tàn lá ổi, lá chuối nồng nực đẫm mồ hôi.
Một
ông già chịu chơi, có thằng con chịu chơi, được gặp một tác giả cũng chịu chơi,
nên câu chuyện hết sức phóng túng nhưng không một chút gì thô tục. Chính vì
những kẻ yêu nhau dưới ánh hỏa châu đã cứu lấy dân tộc và lịch sử. Sự sống bát
ngát dưới bom đạn và thù hận vẫn cứ tươi trẻ và tiếp tục nẩy mầm.
13.
Vác gỗ rừng sâu
Đây
là truyện buồn nhất, cô đọng nhất. Ba năm trong địa ngục trần gian mà những
người trí thức thứ thiệt không hề kêu than một tiếng nào. Sáng chiều, họ vẫn
lặng lẽ đi vào rừng sâu vác gỗ về. Rồi tối đến, nửa đêm bị dựng dậy, điểm danh.
Có mặt! Có mặt! Như thế là hiện hữu. Cần gì phải tra vấn to be or not to be.
Nhưng
làm sao để có thể “to be” giữa nhục nhằn, đói khát? Làm sao sống chung với với
ngụy trí thức và bất cận trí thức!?
Thật
bất ngờ! Người kỹ sư bảo: tôi suy nghĩ. Vâng, tôi suy nghĩ tức là tôi
hiện hữu, cho dù cách cải tạo tàn độc chỉ muốn anh gục chết trên đường đi vác
gỗ.
Đẹp
làm sao người trí thức. Dũng cảm làm sao một người trói gà không chặt!
Tôi
đã đọc cả ngàn trang viết về những trại cải tạo, nhưng chưa có trang nào xúc
động như những trang viết của Lữ Kiều. Ba năm chỉ để hoàn thành một truyện cực
ngắn. Và nung nấu từ ngần ấy năm từ lúc ra trại mới viết được. Viết xong
là ném bút.
Thực
ra anh không viết. anh chỉ kêu lên ba tiếng: Tôi suy nghĩ. Đó là
ba tiếng bi thống làm rạng ngời trí thức (thứ thiệt).
14.
Cuộc đi dạo tình cảm
Bởi
vì, như tác giả đã thú nhận trong phần ghi chú: thay vì sống, tôi suy nghĩ
về tình yêu của mình, nên xúc cảm của tôi ở đây có ít nhiều lợn cợn, rất
tiếc là không đáng có. Phải chi anh đừng ghi chú thì có lẽ tôi đã cảm nhận được
một chút buồn nhẹ rất đáng yêu.
Theo
bước chân của hai người tình cũ đi dạo, tôi chỉ nghe họ độc thoại, cố chống chế
để đừng ngã vào nhau, thực khác xa một trời một vực với cái tiêu đề rất lãng
mạn: cuộc đi dạo tình cảm.
Không,
phải nói là đi dạo của lý trí thì đúng hơn.
Hãy
nghe họ thổ lộ những điều thầm kín:
Làm
sao chú hiểu được tình yêu của người khác là tiếng động khỏa lấp của mình. Một
sự đàn áp, phải không? Chỉ tình yêu đơn phương mới cho ta cái ngất ngây của sự
sáng suốt mê muội. Chú cười? Chú không tin? Nhưng dù thế nào cũng đừng tìm cách
hôn Nhị làm chi…
Và
chàng: Bàn tay rời ra. Bàn tay chợt bần thần bối rối. Những ngón tay kỳ cục,
chơ vơ. Cô bé, cô bé còn quá trẻ. Còn ta, có phải sự già nua làm ta ngại ngùng?
Theo
như cách độc thoại của hai người, thì họ yêu nhau mãnh liệt như hai con tuấn mã
lồng lên. Ghìm cương lại không cho nó phóng tới quả thực là rất khó. Nhưng họ làm
được. Ba mươi năm sau, trên phi trường miền đông nước Mỹ, chàng gặp lại nàng,
cả hai ôm lấy nhau trong vòng tay nghẹn ngào thương mến nhưng cực kỳ
tinh khiết.
Như
thế, quả thực hai người đã sáng suốt một cách rất mê muội. Đi dạo tình cảm là
để cho con tim lên tiếng, chứ không phải cái đầu. Bởi vậy, ba mươi năm sau mới
ôm nhau nghẹn ngào. Phải chi cả hai cứ việc lấm một chút, bụi một chút, nghĩa
là đừng tinh khiết quá thì đã không đến nỗi phải nghẹn ngào như thế.
Gấp
sách lại, mười bốn truyện của anh như mười bốn cái chuông nhỏ trong chùm lục
lạc. Cho dù được viết ra từ hơn ba mươi năm trước, nay vẫn còn nghe những âm
vang ngọt ngào. Để kết một lời, xin mượn câu thơ của Huy Cận: Nhỏ thưa
tràng đạc tiếng còn tịch liêu.
KHUẤT ĐẨU
Tháng 4, 2019
Đọc lại và chỉnh sửa đôi chỗ
Tháng 4, 2019
Đọc lại và chỉnh sửa đôi chỗ