(Bài viết này đã được tác giả trình bày
tại cuộc hội thảo HAI MƯƠI NĂM VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975
tổ chức tại Nam California – Tháng 12.2014)
Tháng
10 năm 1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời, đóng góp vào sự phát
triển của nền văn học miền Nam vào một giai đoạn đầy biến động của đất nước.
Trong suốt hơn 20 năm, từ 1954 đến 1975, có rất nhiều nỗ lực khác nhau, cá nhân
hay tập thể, trong hay ngoài văn giới, đóng góp vào sự phát triển này. Thế
nhưng, đóng góp của Sáng Tạo, như một tạp chí, một vận động văn
học, và như một tập thể, vẫn có một tính cách đặc biệt, và giữ một vai trò quan
trọng.
Những
trình bày sau đây nhằm nhìn lại và đánh giá vị trí đặc biệt đó của Sáng
Tạo trong sự phát triển của văn học miền Nam sau 1954.
MIỀN NAM TRƯỚC KHI SÁNG TẠO XUẤT HIỆN
Để
nhận định công bình và đứng đắn về vị trí của Sáng Tạo, không thể
không nhìn lại bối cảnh của miền Nam trước khi tạp chí này ra đời. Một bối cảnh
chằng chịt với những biến cố dồn dập tại Việt Nam, cùng lúc với những đổi thay
vùn vụt trên thế giới.
Miền
Nam, một bộ phận quan trọng của Quốc Gia Việt Nam, cho đến 1954 vẫn chưa thật
sự là một quốc gia độc lập. Quân đội được đặt dưới quyền chỉ huy tối cao của bộ
tổng tư lệnh Pháp. Các giáo phái có quân đội riêng, kiểm soát một số địa phương
riêng. Lực lượng Bình Xuyên nắm công an cảnh sát, làm chủ sòng bạc Kim Chung và
khu ăn chơi Đại Thế Giới. Dinh Độc Lập, biểu tượng cho uy quyền quốc gia, trực
thuộc Cao ủy Pháp. Viện Đại Học cũng do người Pháp quản lý.
Một
khúc quanh lớn của lịch sử bắt đầu vào tháng 7 năm 1954 khi hiệp định đình
chiến Genève được ký kết, chia đôi đất nước dọc vỹ tuyến 17. Chỉ một tháng sau
đó, cuộc di cư của gần một triệu đồng bào miền Bắc bắt đầu. Tháng Chín, Pháp
giao trả Dinh Ðộc Lập về chính phủ miền Nam. Tháng Mười, lực lượng Pháp rút ra
khỏi Hà Nội. Tháng 12, Hoa Kỳ tuyên bố viện trợ cho miền Nam. Tháng Giêng năm
sau, thủ tướng Ngô Ðình Diệm ra lệnh đóng cửa sòng bạc Kim Chung và khu ăn chơi
Ðại Thế Giới. Tháng Tư, chính phủ miền Nam dẹp tan lực lượng Bình Xuyên và
thống nhất quân đội. Cũng trong tháng Tư, Viện Ðại Học được Pháp chuyển giao.
Tháng Bảy, Chủ tịch Hồ Chí Minh công du Trung Quốc, Liên Xô và tiếp nhận viện
trợ của hai nước này. Tháng Mười, Thủ tướng Ngô Ðình Diệm tổ chức trưng cầu dân
ý truất phế Quốc trưởng Bảo Ðại, thành lập Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 12 năm đó
miền Bắc cho thi hành chính sách cải cách điền địa và mở chiến dịch đấu tố địa
chủ trước các tòa án nhân dân.
Tháng
Hai năm 1956, tại Ðại hội Cộng sản lần thứ 20, Khrushchev kịch liệt đả kích cá
nhân và sai lầm trong chính sách của Stalin. Tháng Sáu, chính phủ miền Nam
tuyên bố các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Cũng
trong tháng đó, thợ thuyền ở Poznan (Ba Lan) biểu tình bạo động, bị lực lượng
nội an thẳng tay đàn áp. Tháng Bảy, Ai Cập quốc hữu hóa kênh đào Suez. Tháng l0
năm đó, cuộc chiến giữa Ai Cập với Do Thái và Anh-Pháp xảy ra. Ðồng thời, cuộc
các mạng Hung Gia Lợi bùng nổ.
Những
biến cố trên đây, cùng với nhiêu biến cố dồn dập khác, ảnh hưởng mạnh vào tâm
tư các thành phần thanh niên và trí thức trẻ ở miền Nam, đặc biệt là thành phần
mới di cư từ miền Bắc. Những sự kiện mang ảnh hưởng tiêu cực từ phe xã hội chủ
nghĩa đã củng cố niềm tin vào sự chọn lựa chính trị và vào đời sống con người ở
vùng đất mới của quê hương. Thanh niên miền Nam cũng choàng tỉnh sau một thời
gian sống khá lặng lẽ giữa những mâu thuẫn về lý tưởng và thực tế phát sinh từ
biến động Mùa Thu 1945. Sự va chạm giữa đồng bào miền Nam với đồng bào di cư từ
miền Bắc hay những đồng bào trở về từ các vùng do Việt Minh kiểm soát chỉ xảy
ra trong một thời gian rất ngắn, sau đó lại là những hội nhập vừa có tính bổ
sung vừa có tính kích động. Những mặc cảm lệ thuộc trước đây cũng không còn
nữa. Những ý thức mới trong văn học và nghệ thuật và không khí hồi sinh của thế
giới phương Tây sau thế chiến bắt đầu đánh thức họ.
Trong
khi đó, ở lãnh vực văn học nghệ thuật và báo chí, miền Nam có một hụt hẫng rõ
rệt. Tờ tạp chí có nhiều ảnh hưởng đối với thành phần trí thức và thanh niên
Sài Gòn là tờ Ðời Mới của Trần Văn Ân, với sự cộng tác của Hồ
Hữu Tường, Nguyễn Ðức Quỳnh, thì vì liên hệ của các ông Ân, Tường với nhóm Bình
Xuyên nên bị đóng cửa. Mà thật ra, đến thời điểm đó, nội dung Ðời Mới cũng
không còn thích hợp với những suy nghĩ mới của quần chúng. Một số nhà văn miền
Nam được ưa chuộng như Vũ Anh Khanh chẳng hạn, thì ra Bắc tập kết (l). Nhà văn
được trọng vọng như Nhất Linh thì hoàn toàn im lặng. Lớp trẻ học bài nói về ông
ở trung học rất hâm mộ ông, không hề biết là ông đang ở đâu. Nhà văn Ðỗ Ðức Thu
làm chủ tịch Văn Bút Việt Nam nhưng chẳng có sinh hoạt hay công trình sáng tác
văn học nào đáng kể. Cho đến nay, chẳng mấy ai nhớ là vào lúc đó ông làm những
gì.
Trong
một hoàn cảnh như vậy, một bên là không khí sôi động về tâm lý và xã hội nơi
quần chúng và nhất là nơi giới trẻ, một bên là thái độ lặng lẽ nơi đa số trí
thức và văn nghệ sĩ đã thành danh, tạp chí Sáng Tạo ra đời.
Thật ra, vào lúc đó, cũng có một số nỗ lực tương tự xuất hiện, như trường hợp
của các tạp chí Mùa Lúa Mới hay Thế Kỷ Hai Mươi,
nhưng chỉ được vài số và ảnh hưỡng không đáng kể. Chỉ có sự xuất hiện cũng như
cách xuất hiện của Sáng Tạo mới có thể được xem là “điểm đổi
hướng” trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam.
Ðiều
đáng để ý là cũng vào thời điểm này, miền Bắc chứng kiến sự bùng nổ của phong
trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Không biết những phản ứng của văn nghệ sĩ
và trí thức đối với thực tại ở hai miền chỉ là ngẫu nhiên hay thật ra, cả hai
đều chịu sức đẩy chung của thời đại và lòng khao khát đưa nghệ thuật vươn tới
trước. Thế nhưng, nhìn sâu hơn, cách dấn thân của văn nghệ sĩ và trí thức ở hai
miền quả có khác nhau, và, như mọi người đều biết, phản ứng của quần chúng và,
đặc biệt, của giới cầm quyền thì hoàn toàn trái ngược.
ĐÓNG GÓP CỦA SÁNG TẠO
Số
đầu tiên của Sáng Tạo ra mắt vào tháng 10 năm 1956. Trước đó,
những khuôn mặt chính của Sáng Tạo như Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyên, Duy Thanh, Ngọc Dũng v.v... đã có một số công trình tạo cho họ một vị
trí khá đặc biệt trong văn học và nghệ thuật ở miền Nam. Mai Thảo xuất bản “Ðêm
Giã Từ Hà Nội” vào năm 1955. Duy Thanh, Ngọc Dũng đã tổ chức nhiều cuộc
triển lãm hội họa. Thanh Tâm Tuyền đã hoàn thành tạp thơ tự do “Tôi Không
Còn Cô Ðộc” và ra mắt cũng trong tháng 10 năm đó.
Người
chủ trương cũng là người đứng đầu nhóm Sáng Tạo là nhà văn Mai
Thảo, lúc đó chưa tới 30 tuổi. Trong một bài viết trên báo Văn (Sài
Gòn) vào 1970, Mai Thảo có ghi lại về thời kỳ này như sau:
“Bấy
giờ là vào khoảng hai năm 1956-1957. Những dấu chân một triệu của vượt tuyến
kín trùm đất nước, vừa đặt xuống những ruộng đồng và những rừng núi mênh mông
bát ngát của miền Nam. Những hành trình trong đêm tấp nập cặp bến lúc ngày
dựng. (...) Lịch sử và chuyển đổi tàn nhẫn đột ngột của thời thế đẩy trọng tâm
đời sống từ một vùng trời này tới một vùng biển khác. Nhưng cái hướng xô đẩy
đích thực là từ sau lưng đẩy về trước mặt, quá khứ đẩy vào tương lai. (...)
Không khí cũ, không thở cùng được nữa. Nhưng khuôn vàng thước ngọc xưa không
còn đo lường được những kích thước bây giờ. Và đời sống là đi tới. Không lùi, không
giậm chân một chỗ.
Trong
một thực tại đầy đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học
nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối
Thanh Châu, những khái niệm Xuân Thu, những luận đề Tự Lực. Mà vươn phóng từ
một thoát ly để đưa tới một hình thành, hóa thân từ một chặt đứt, bằng những
thí nghiệm và những khám phá, chứng minh rằng cái bây giờ ta đang sống tuyệt
đối không còn một đồng dáng một đồng tính nào với cái hôm qua đã tách thoát đã
lìa xa. Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển ra khơi. Và
cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đã bắt đầu.”
(2)
Trong
suốt 31 số liên tiếp, Sáng Tạo đã không ngừng cổ võ cho những
thí nghiệm và khám phá trong nghệ thuật. Ðiển hình nhất cho những thí nghiệm và
khám phá này là những sáng tác của Thanh Tâm Tuyền và Duy Thanh.
Thanh
Tâm Tuyền xuất hiện như một hiện tượng trong thi ca. Ông được đón nhận khá vồn
vã. Có thể vì là hiện tượng hơn là sự cảm nhận thật của độc giả đối với thơ của
ông. Nhu cầu có một cái gì mới quá lớn vào thời kỳ đó. Cả một thời gian dài,
khi nói đến sự khám phá hay phá vỡ trong văn học, người ta nghĩ đến Thanh Tâm
Tuyền hơn là Mai Thảo. Mặc dầu Mai Thảo đứng đầu nhóm Sáng Tạo và
chủ trương khám phá trong nghệ thuật với tất cả nhiệt tình, văn của ông và cả
thơ của ông cũng không hàm chứa một phá vỡ thật sự như vậy. “Ðêm Giã Từ Hà
Nội” của Mai Thảo là tác phẩm đầu tiên và cũng là một trong những tác phẩm
nổi tiếng nhất của ông, không có tính phá vỡ đó. Nhiều bài thơ của ông khá hay.
Cũng không có tính phá vỡ đó. Trong một bài thơ ông chép tặng cho Ðinh Cường
vào 1956, có những câu như thế này:
Tôi
đứng hoàng hôn trong cửa tối
Nhìn
người bình minh vào cuộc đời
Người
đi ánh sáng qua đêm tối
Người
đi ánh sáng qua thời gian
(MT:
Ngày Mai Vui)
Thanh
Tâm Tuyền hoàn toàn khác. Ông đến với độc giả Việt Nam, đa số vào lúc đó chỉ
quen thuộc với cách làm thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, hay những nhà thơ tiền
chiến nói chung, một cách đột ngột, vừa phũ phàng vừa hấp dẫn. Bằng những câu
như:
một
câu thơ hay tự nhiên như lời nói
bài
thơ hay là cái chết cuối cùng
giã
từ cái giường cái bàn cái ghế
một
người hai người và ba người
một
người hai người và ba người
(TTT:
Ðịnh Nghĩa Một Bài Thơ Hay)
hay:
tôi
thèm giết tôi
loài
sát nhân muôn đời
tôi
gào tên tôi thảm thiết
thanh
tâm tuyền
bóp
cổ tôi chết gục
để
tôi được phục sinh
(TTT:
Phục Sinh)
Những
bài thơ của ông, cùng với cách trình bày những bài thơ đó trong Sáng
Tạo, quyến rũ nhiêu độc giả. Hiểu được hay không, cảm được hay không, qua
thơ Thanh Tâm Tuyền, họ bắt đầu tin rằng thi ca có một cái cõi khác, ngoài cái
cõi thi ca mà họ vốn biết. Ðiều đó khích động sự tìm tòi của nhiều người. Những
người mới làm thơ sợ những nét ước lệ hơn trước. Ðồng thời, miền Nam cũng bắt
đầu có nhiều thi sĩ làm thơ thật lạ lùng, so với trước đây. Có nhiều bài thơ
hay cũng như có rất nhiều bài thơ dở. Thơ dở không ai nhớ, nhưng những bài thơ
hay đã làm giàu cho nền văn học ở miền Nam, thật ra còn khá nghèo so với nhiều
nền văn học khác trên thế giới.
Một
điều cần ghi nhận là mặc dầu thường được nói đến như một nhà thơ, Thanh Tâm
Tuyền viết nhiều truyện dài đặc sắc. Truyện đầu tay là “Bếp Lửa”, xuất
bản năm 1957, lúc ông hai mươi mốt tuổi.
Duy
Thanh là một họa sĩ, cùng với các họa sĩ khác thuộc nhóm Sáng Tạo hay
gần gũi với Sáng Tạo như Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Tạ Tỵ... có rất nhiều nỗ lực tạo
sức sống mới cho hội họa Việt Nam. Theo Huỳnh Hữu Ủy, trong vòng 5 năm, từ 1955
đến 1960 “những cuộc triển lãm của Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Tạ Tỵ
liên tục mở cửa, đã gây được nhiều hào hứng, đặt thành vấn đề suy nghĩ cho anh
em sáng tác cũng như giới nghiên cứu, phê bình và thưởng ngoạn”. (3)
Duy
Thanh cũng là một nhà văn. Các truyện ngắn của ông thường được xây dựng trên
những cảm xúc thật, mãnh liệt và thầm kín, và trên một quan niệm về cái đẹp và
về tính nhân bản có thể rất khác với những quan niệm đương thời. “Giấc Ngủ”
là truyện ngắn tiêu biểu và thành công của ông. Truyện là lời kể của một cô gái
quê, nghèo, xấu xí, tàn tật, suốt ngày chỉ bò lê la quanh quẩn trong vài chục
thước đất. Ngoại trừ lòng thương của bà mẹ, nghèo khổ và kém may mắn, cuộc đời
chẳng có gì để dành cho cô. Một hôm, chợt bất ngờ, một thanh niên vì quá “túng
bấn”, làm ẩu với cô. Cô mang thai, làm ngạc nhiên và xấu hổ cả làng. Kể từ đó,
cô bắt đầu cảm nhận được sự hiện hữu của mình, cảm nhận được tình yêu, ý nghĩa
của sự sống, và bắt đầu có hy vọng. “Ðêm ấy tôi mơ thấy tôi đi về làng như
một người thường. Bằng hai chân. Ai nấy đều chào hỏi tôi như chính tôi cảm thấy
từ trước mình vân là người thường. Ðến nhà thì có một thằng nhỏ ra đón với mẹ
tôi. Trông tôi thằng bé chỉ cười. Mẹ tôi dắt nó đến và bảo: Sao không chào mẹ
mày đi. Tôi giơ tay bế nó hôn, rồi hai mẹ con dong chơi trong vườn. Giữa lúc
đang đùa với con và đang sống tràn trề hạnh phúc thì tôi hãi hùng chợt thấy
cảnh vật như lớn lên và tôi nhỏ dần, nhỏ dần lại. Một cảm giác ớn lạnh suốt
sống lưng và tôi chợt thức dậy. Bấy giơ cón là đêm”. (4)
Những
cây viết nổi bật khác của Sáng Tạo như Doãn Quốc Sỹ, Quách Thoại, Tô Thùy Yên
v.v... không đặt nặng lắm về những phá vỡ.
Doãn
Quốc Sỹ là một nhà giáo. Thế giới văn chương của ông là thế giới rất nhân hậu.
Ông không thích tạo dựng nhân vật ác. Nếu phải tạo dựng, cái ác chỉ có tính
biểu tượng, ông không làm cho nó sống động. Bộ trường thiên “Khu Rừng Lau”
gồm 5 cuốn, là một công trình lớn. Ông xây dựng mẫu người yêu quê hương, yêu
con người, và rất hết lòng với văn hóa. Qua tác phẩm của ông, văn chương gần
gũi với giáo dục. Qua con người thật của ông, nhà văn không xa cách với những
điều được viết ra trong văn. Ông trở thành biểu tượng của một loại trí thức dấn
thân, kiên trì với lý tưởng, quyết liệt với cái xấu mà vẫn nhân ái và độ lượng.
Ðối với thành phần sinh viên và trí thức trẻ ở miền Nam, ảnh hưởng tích cực đó
của ông không nhỏ.
Tô
Thùy Yên cũng làm thơ tự do nhưng khác với Thanh Tâm Tuyền, thơ ông không khó
hiểu hay không làm ra khó hiểu. Ông khong tỏ ra quyết liệt trong nỗ lực phá vỡ
những khuôn sáo cũ. Thế nhưng, thơ của ông vẫn có nét riêng, sâu sắc và vẫn có
nhạc, vẫn ngang tàng, cô đơn, và rất dễ len vào tâm hồn của người đọc.
tôi
mang khắp hình hài những vết bỏng
đi
suốt hoàng hôn không hỏi chào ai
(TTY:
Tội Trạng)
giữa
tầng trời cao chim giục giã
từng
giàn như những thủy triều sôi
bạn
có nghe, này bạn có nghe
trên
đỉnh non nhòa, mây xôn xao
về
nơi hẹn nào không hẹn trước
bạn
có nghe, này bạn có nghe
vũ
trụ miên man chuyển động đều
chim
đã bay quanh từ vạn cổ
gió
thật xưa, mây thật già nua
...
bìm
bịp chiều chiều kêu nước lớn
đi,
đi đâu, chèo chống mỏi mê
đến
ngã ba, đành theo một lối
tiếc
ngẩn không cùng theo lối kia
(TTY:
Ðãng Tử)
Trước
1975, Tô Thùy Yên chưa xuất bản tập thơ nào. Thật khó để viết về ông cho đầy
đủ. Mặc dầu vậy, những người phê bình thi ca miền Nam đứng đắn đều dành cho ông
những lời lẽ thật trang trọng.
Quách
Thoại cũng là một tài hoa của nhóm. Ông mất sớm. Thơ ông quằn quại nhưng vẫn
không cầu kỳ, và gần với thơ cổ điển.
ta
thức một đêm trắng
tỏ
tình với trăng hoa
ta
chết nằm liêu vắng
không
bóng người đi qua
(QT:
Liêu Vắng)
Ngoài
những cây viết nêu trên, Sáng Tạo thường xuyên có sự góp mặt
của những tên tuổi khác như Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyên Sa, Thanh
Nam, Thạch Chương, Lý Hoàng Phong v.v... Ðặc biệt trong suốt thời gian tạp chí
này hiện diện, nó là một môi trường khích động, làm phát sinh nhiều tài năng
của văn học Việt Nam.
Sáng
Tạo ra được 31 số thì tạm đình bản. Sau đó tái xuất hiện (Sáng Tạo Bộ
Mới) được một thời gian nữa thì ngưng hẳn. Thế nhưng, ảnh hưởng của Sáng Tạo
đối với sự phát triển của văn học miền Nam thì quả thật đã vượt xa cái đời sống
ngắn ngủi của tạp chí này.
NHỮNG CỌ XÁT
Cach
xuất hiện của Sáng Tạo cùng với chủ trương “những trào lưu cạn dòng phải
nhượng bộ dứt khoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế”, nếu nó lôi cuốn
được thành phần thanh niên và trí thức trẻ thì ngược lại đã làm buồn lòng rất
nhiều người. Ðặc biệt là những nhà văn đã thành danh hay những người chịu ảnh
hưởng nặng của văn chương tiền chiến. Theo Võ Phiến, “cuộc “cách mạng”
của Sáng Tạo như vậy động chạm đến sự có mặt đầy uy tín của
một dĩ vãng: Nhất Linh. Sau đó hai năm, Nhất Linh “xuống núi”...” (5)
Ðiều
cần nhớ là vào lúc “xuống núi”, Nhất Linh được gần như cả nước kính trọng như
một thần tượng đầy quyền uy trong văn học Việt Nam hiện đại. Tạp chí Văn
Hóa Ngày Nay (VHNN) của ông ra mắt ngày 17 tháng Sáu 1958 bán
hết sạch ngay lập tức và sau đó phải in thêm cho đủ tiêu thụ. Một hiện tượng
chưa từng thấy.
Trên
số đầu tiên, trong bài nhan đề “Văn Hóa Ngày Nay Với Văn Hóa Việt Nam”,
ông viết:
“Văn
nghệ Việt Nam hơn mười năm nay vẫn ở trong một tình trạng ngưng đọng, chưa tìm
được lối đi. (...) Sở dĩ ngày nay văn nghệ chưa rung cảm được độc giả vì văn
nghệ chưa nói được lòng người. Văn nghệ cần phải tìm chân giá trị của nó
ở lòng người, và vĩnh viễn sống với loài người. (...)”
Khi
Nhất Linh viết những dòng chữ trên đây, tạp chí Sáng Tạo đã
liên tiếp xuất hiện trong suốt gần hai năm. Nhất Linh chủ trương “đăng những
bài và truyện có giá trị bất cứ thời nào nơi nào.”
Như
vậy, vào lúc đó, miền Nam chứng kiến hai vận động văn học đối nghịch nhau. Sự
cọ xát giữa hai vận động đó không nhỏ và cũng đồng thời biểu trưng cho sự cọ
xát giữa hai quan điểm, hai tâm tình khác nhau của quần chúng thưởng ngoạn.
Không
biết rõ trong thực yế phản ứng của nhóm Sáng Tạo như thế nào
đối với VHNN, nhưng sự cọ xát phải lên đến một mức độ trầm trọng.
Ðến nỗi Nhất Linh đã cho đăng những bài công kích hay chế giễu Sáng Tạo.
Một cách không công khai như bài viết của Thu Vân trên VHNN số
3, hay tương đối công khai như bài viết của Duy Lam trên số VHNN Giai Phẩm Xuân
1959: “...đến gần mới biết đó là một họa sĩ của nhóm Sáng Tạo (...)
Họa sĩ vẽ tài thật, tác phẩm của họa sĩ thật thể hiện được hết tinh thần và
tinh túy nội ngoại của đống rác (...) Bước chân vào tòa báo Sáng Tạo tôi
lấy làm lạ vì thấy mỗi người đứng một góc phòng trước một bàn thờ nhỏ treo một
bức ảnh bán thân. Họ làm đèn khấn vái rất thành kính và lễ luôn tay. (...) Tôi
đến sau lưng văn sĩ M.T. người chủ trương nhóm S.T. anh cũng
không hay biết. Lắng tai tôi nghe thấy anh khấn:
“Trời
ơi! Người là một người siêu phàm! Người là tất cả. Người ngự trị trên thế giới
này! Ta kính phục người, trọng người vô vàn!...”
Tò
mò tôi nhìn lên bàn thờ thì chợt giật mình kinh hoảng vì lạ thay anh M.T. đang
lễ ảnh anh M.T.! Qua thăm những bàn thờ khác thì đại loại đều thế cả (...)”
(6)
Thực
tế, mặc dầu được sự đón nhận vô cùng nồng nhiệt từ lúc đầu, trong sự cọ xát đó,
người đọc hờ hững với VHNN. Tạp chí VHNN kéo dài
không được hai năm thì đình bản. VHNN quy tụ được rất nhiều
cây viết có thực tài. Thế nhưng, nếu nhìn VHNN như một vận
động văn học thì ảnhh ưởng của nó trong sinh hoạt văn học nghệ thuật của miền
Nam lại rất khiêm nhường.
Ghi
lại những cọ xát đó cùng với cách kết thúc đó chỉ để nói lên một điều: miền Nam
đã thay đổi nhiều lắm. Mặc dầu rất kính trọng Nhất Linh, người đọc sách ở miền
Nam không còn muốn thu mình trong cái thế giới văn chương của ông nữa. Họ gần
với Sáng Tạo hơn. Không có gì sai trong chủ trương “văn
phải dựa vào thời gian và dựa không gian để vượt không gian”. Rất đúng là
đằng khác. Tuy nhiên cái thế giới văn chương của Nhất Linh ở VHNN vẫn
còn quẩn quanh trong văn chương của trường ốc. Ngoài văn chương cổ điển Việt
Nam và Trung Quốc, nó thu hẹp trong ảnh hưởng văn chương Pháp của thế kỷ 19
cộng với Leo Tolstoi và Dostoievski của Nga. Trong suốt các số VHNN,
người đọc không thấy sự hiện hữu của thế kỷ 20, cũng như không thấy có dòng văn
học nào khác ở thời đại này.
Vào
thời điểm đó, sự khao khát sống vượt ra ngoài cái thế giới nhỏ bé của miền Nam
đã rất lớn. Những ý thức về độc lập và bình đẳng cũng đã bắt đầu ăn sâu. Có lẽ
vì vậy mà tính cách của xã hội miền Nam và của văn học miền Nam gần với Sáng
Tạo hơn là với VHNN.
VÀI NHẬN XÉT THÊM VỀ NHÓM SÁNG TẠO
Bên
cạnh những đóng góp như đã trình bày trên đây, khi nói về Sáng Tạo không
thể không nói đến một vài khía cạnh khác, tiêu cực hay tích cực, rất đặc thù
của Sáng Tạo.
Những
cọ xát với VHNN có lẽ không phải chỉ phát sinh từ sự khác biệt
về quan điểm, và giá trị nghệ thuật của tác phẩm, mà có thể còn do những yếu tố
rất con người. Nếu cái đẹp của nhóm Sáng Tạo, ngoài chuyện làm văn
chương nghệ thuật, là ở tình bằng hữu của họ, thì có thể cũng chính cái tình
bằng hữu đó cũng đã bủa vây họ để tạo thành tinh thần phe nhóm. Không biết sự
thật như thế nào, nhưng khi nghĩ đến Sáng Tạo, không mấy ai không
cảm thấy điều này. Nếu những phản ứng của Nhất Linh hay của Duy Lam chỉ hoàn
toàn phát sinh từ vấn đề nghệ thuật, những điều được viết ra về Sáng
Tạo chắc phải khác đi. Tinh thần phe nhóm trong sinh hoạt văn học nghệ
thuật không là điều mới lạ. Tự Lực Văn Ðoàn chắc cũng có tinh
thần đó. Thế nhưng trong những bài viết của họ, những sự xưng tụng lẫn nhau
không nhiều, và không có những chữ “quá lớn”.
Một
khía cạnh tiêu cực của nhóm Sáng Tạo là sự thiếu vắng những
cây viết nữ nòng cốt, khác với trường hợp của VHNN, cũng như của
các tạp chí văn học khác xuất bản về sau này. Bên cạnh đó, mặc dầu cổ võ cho
những trào lưu tiến bộ, những sáng tác văn học ở Sáng Tạo vẫn chưa bao gồm được
những sắc thái liên hệ đến người nữ ở những khía cạnh có tính thời đại, xã hội
và trí thức, như thấy rõ trong văn học Nhật Bản từ thế kỷ 19.
Sáng
Tạo đưa
ra những tiêu chuẩn rất cao cho văn học nghệ thuật, nói nhiều đến những phá vỡ,
những thử nghiệm, những xông tới. Thế nhưng, ngoại trừ Thanh Tâm Tuyền, hầu hết
những văn nghệ sĩ của nhóm đã không đi trọn con đường nghệ thuật của họ theo
tinh thần đó. Không phải là tác phẩm sau này của họ tầm thường. Nó chỉ đi
không đúng tinh thần đó. Mai Thảo, có công lớn trong vận động văn học của Sáng
Tạo, bắt đầu sự nghiệp của ông bằng những tác phẩm hay. Sau đó, ông
viết nhiều và tạo một thế giới riêng của ông. Thế giới đó phần lớn lại nặng về
tánh cá biệt ở phong cách hành văn, sử dụng ngôn từ. Ở độ sâu của nghệ thuật,
văn chương của ông không thực sự mới theo cái nghĩa phá vỡ. Sáng tác của ông
hầu hết cũng không đủ lớn để tồn tại lâu với thời gian, như nhiều tác phẩm của
Tự Lực Văn Đoàn trước 1945, hay của Võ Phiến, ở cùng thời với ông. Duy Thanh
cũng vậy, ông viết được một vài truyện ngắn hay và có thể xem là rất mới ở thời
điểm đó. Ông cũng được xem là một họa sĩ có khả năng tiên phong, được mến
chuộng về cả tài năng lẫn tánh tình. Không hiểu vì sao, sau đó không thấy ông
tiếp tục theo chiều hướng như vậy. Sau này, không mấy ai còn thấy những sáng
tác mới của ông, cả trong văn chương lẫn hội họa.
Sau
biến cố 1975, Sáng Tạo có nhiều người ở tù, và ở tù rất lâu.
Như Doãn Quốc Sỹ, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền.v.v. Ðặc biệt, những nhà
văn, nhà thơ này vẫn tiếp tụ sáng tác, ở trong tù, cũng như sau khi ra khỏi tù.
Có một số bài đặc sắc, như bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên. Điều đáng tiếc là nói
chung sáng tác của họ không nhiều, không lớn để biểu trưng đúng mức nổi đau
kinh hoàng của dân tộc và của cả chính họ. Ðiều đáng ghi nhận, văn chương của
họ không mang chút oán hờn nhỏ bé. Riếng về Thanh Tâm Tuyền, sáng tác của ông
có những nét đặc biệt cần được trình bày ở đây.
Trước
1975, đọc thơ Thanh Tâm Tuyền, người ta thấy ở nơi ông nhiều ý tưởng lạ. Người
ta thấy ông đặt tiêu chuẩn cao cho thơ. Người ta biết ông có một quan niệm về
thơ không giống rất nhiều người, ông có một cõi thơ riêng. Tuy nhiên, ngoại trừ
một ít bài, thơ ông khó gần với người đọc. Sau này, đọc thơ ông xuất hiện ở hải
ngoại dưới bút hiệu Trần Kha hay những bài trong tập thơ mới xuất bản năm 1990
(7), sự xa cách đó không còn nữa. Nhiều bài thơ sau này của ông tuyệt vời. Bây
giờ ông là một nhà thơ tự do đúng nghĩa. Ông không tránh né thơ cổ điển. Ông
làm thơ lục bát, thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn... và dĩ nhiên rất nhiều thơ tự
do. Gần như bài nào cũng đặc sắc. Và, vẫn là thơ Thanh tâm Tuyền. Tôi cho rằng
ông là người duy nhất trong nhóm vẫn tiếp tục đi tới trên con đường rất khó mà
ông đã chọn.
Trông
lên đồi núi mờ sương
Mưa
bay tất tưởi mưa rong tần ngần
Tiêu
điều ngơ ngác trại quân
Ðất
lầy bùn đỏ gánh chân ghê người
(TTT:
Ngày Ðến)
Tuột
dốc té nhào trên hẻm núi
Chết
điếng toàn thân trong giây lâu
Mưa
rơi đều hạt mưa phơi phới
Ngày
đang tàn hiu quạnh rừng sâu
(TTT:
Ngã Trên Núi Việt Hồng Ở Yên Báy Khi Ði Vác Nứa)
Em,
em có hay kẻ tội đồ biệt xứ
sớm
nay về ngang cố quận
Xao
xuyến ngây ngô hắn dọ hỏi
bóng
tối sâu thẳm
Ðêm
vây hãm lụn dần
Thủ
thỉ mưa ru ngày khốn đốn
(TTT:
Bài Nhớ Thi Sĩ)
Cho
đến nay, giữa những bài thơ tù đã được xuất bản của Việt Nam, khó tìm những bài
thơ hay hơn.
KẾT LUẬN
Những
trình bày trên đây chỉ nên được xem như một cố gắng đánh giá công bình về sự
đóng góp quan trọng của một nhóm văn nghệ sĩ cho văn học, nghệ thuật Việt Nam.
Dù sống trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước, dù sống tha hương, dù trong
tù tội.
Nhận
định những công trình cũ cũng có thể được xem như một cách thưởng ngoạn hay như
một hồi tưởng. Quan trọng hơn cả, đó cũng là một cách để nhìn, đế đánh giá hiện
tại và tương lai. Văn Học Miền Nam phát triển trong hoàn cảnh một đất nước bị
chia đôi và chỉ có năm năm vắng tiếng súng. Ðất nước chúng ta ngày nay đã thống
nhất và trải qua gần bốn mươi năm thanh bình, theo cái nghĩa không có bắn giết
nhau bằng súng đạn. Qua cái thời gian dài đó, văn học chúng ta, ở trong hay
ngoài nước, đã vượt đi những chặng đường nào?
Bài
biết này không nhằm trả lời câu hỏi đó. Chỉ xin ghi lại những dòng chữ của Mai
Thảo, viết 45 năm trước đây tại Sài Gòn:
“Nghệ
thuật hôm nay phải nói được chúng ta, trình bày được tâm trạng, đời sống lớp
người chúng ta, nếu không nó sẽ chẳng bao giờ nói được gì hết. (...) Ðời sống
không dừng lại. Nghệ thuật thì không ngừng đổi thay theo đời sống đi tới, và
nhà văn luôn luôn đứng trước những vấn đề mới đặt ra, từng phút từng giây (...)
nghệ thuật ta đã và vẫn còn phải là một lên đường. bằng những thí nghiệm không
ngừng. Bằng những khám phá không mỏi.” (2)
Trương Vũ
Virginia,
December 2014
Chú thích:
1. Vũ
Anh Khanh là tác giả bộ truyện “Nửa Bồ Xương Khô”, trong đó có bài thơ
nổi tiếng “Tha La Xóm Ðạo”. Theo nhà văn Võ Phiến, Vũ Anh Khanh sau 1954
vượt tuyến vào Nam bị bắn chết trên sông Bến Hải.
Xem “Văn
Học Miền Nam Tổng Quan” của Võ Phiến, nhà Văn Nghệ (California) xuất bản.
2. Mai
Thảo, Ðứng Về Phía Những Cái Mới, in lại trong Tuyển Tập
Sáng Tạo, Sống Mới xuất bản (California, 1980)
3. Huỳnh
Hữu Ủy, Nghệ Thuật Tạo Hình Sài Gòn Trước Năm 1975, tạp chí Hợp
Lưu số 10 (California, 1993)
4. Duy
Thanh, Giấc Nguû, in lại trong Tuyển Tập Sáng Tạo.(sđd)
5. Võ
Phiến, sđd, trang 185.
6. Duy
Lam, Ðầu Năm Xông Ðất, Văn Hóa Ngày Nay số 8, Giai Phẩm Xuân
(Sài Gòn, 1959)
7. Thanh Tâm Tuyền, Thơ Ở Ðâu Xa, Trầm Phục Khắc xuất bản (California, 1990)
7. Thanh Tâm Tuyền, Thơ Ở Ðâu Xa, Trầm Phục Khắc xuất bản (California, 1990)