Nhắc
đến Boris Leonidovich Pasternak (Борис Леонидович Пастернак) là nhắc đến
tiểu thuyết "Bác
sĩ Zhivago", mà
tác giả phải để ra hàng chục năm mới hoàn thành và không thể nào công bố bằng ngôn
ngữ của mình, trên quê hương của mình. Thật vậy, khi tác phẩm ra đời (năm
1955), dưới áp lực những lời công kích, phê phán của giới văn học và chính trị, không một nhà xuất bản nào
nhận bản thảo. Phải chờ đến một năm sau, tác phẩm mới được xuất bản tại nước Ý,
bản tiếng Nga và bản dịch tiếng Ý! Ngay sau đó, cuốn truyện được dịch sang
nhiều ngôn ngữ khác, xuất bản tại nhiều quốc gia khác ( tiếng Pháp, Đức, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thuỵ Điển, Na Uy, Đan Mạch, Phần Lan...) Bản tiếng
Anh đầu tiên do Max Hayward và
Manya Harari dịch, xuất bản vào
tháng 8 năm 1958, là bản dịch tiếng Anh duy nhất được biết trong suốt 50
năm và trong hai năm 1958, 1959 đứng đầu danh sách best-seller của báo The New York Times trong 26 tuần. Độc
giả Việt Nam đã sớm đọc được từ năm 1974, với bản dịch của Nguyễn Hữu
Hiệu, nhan đề "Vĩnh biệt tình em", do Tổ hợp Gió xuất bản tại
Saigon. Và sau đó là bản dịch của Lê Khánh Trường, in trong
"Boris Pasternak, Con người và tác
phẩm", Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1988. Mãi hai mươi tám năm sau khi tác giả qua đời, "Bác sĩ Zhivago" lần đầu tiên
mới được in tại Liên Xô! ( 1988 ).
Nhắc
đến Boris Pasternak là
nhắc đến Giải Nobel về văn học được trao cho ông vào năm 1958, một sự kiện làm
tốn bao nhiêu giấy mực từ thời điểm đó đến tận hàng chục năm về sau. Phản hồi
nhanh chóng của Boris Pasternak khi
được tin là bức điện tín gửi ngay sang Thuỵ Điển: " Vô cùng biết ơn,
cảm động, tự hào, ngạc nhiên, bối rối". Tiếp theo là sự công kích,
phản đối nặng nề, cay độc, trực diện, việc khai trừ Boris Pasternak ra khỏi Hội Nhà Văn
Liên Xô,và sự đe doạ nếu ông đi nhận giải thưởng sẽ không được phép trở về quê
hương. Ông đành phải gởi bức điện tín thứ hai: " Nhìn nhận ý nghĩa của
sự trọng vọng này trong xã hội tôi đang sống, tôi buộc phải từ chối giải thưởng
không xứng đáng được trao cho tôi. Xin đừng xem sự từ chối tự nguyện của tôi là
một hành động xúc phạm." Viện Hàn Lâm Hoàng gia Thuỵ Điển tiếp nhận
thông tin này bằng một văn bản chính thức trong đó nêu rõ: "... Tất
nhiên sự từ chối này không ảnh hưởng đến hiệu lực của giải thưởng. Chỉ có điều
là Viện Hàn Lâm lấy làm tiếc phải thông báo là lễ trao giải không thể diễn ra."
Tháng 12 năm 1989, con trai của Boris Pasternak là nhà văn Evguenii đã được mời sang Thuỵ Điển nhận giải
thưởng thay ông, với những nghi thức long trọng của một lễ trao giải chính
thức. Sự kiện này đã chứng minh cho những lời ông viết trong bài thơ Giải
thưởng Nobel:
...Nhưng
dù đã cận kề cái chết
Tôi
vẫn tin sẽ sớm đến ngày
Hận
thù sỉ nhục phải lùi bước
Trước
sức mạnh lẽ phải lòng ngay.
Gắn
kết hai sự kiện nêu trên, câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng Boris Pasternak được trao giải Nobel
nhờ ( và chỉ nhờ ) tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago? Ngoài cuốn truyện này và một số tác phẩm văn xuôi khác, ông
còn nổi tiếng là một dịch giả tài năng. Trong thời gian những sáng tác của mình
không phổ biến được, ông chuyên chú dịch thơ cổ điển tiếng Pháp, tiếng Đức (
cuốn Faust của Goethe ), và nhất
là tiếng Anh. Các
bản dịch những bi kịch của Shakespeare được đánh giá là những bản tiếng Nga
hay nhất.
Tuy
nhiên, thể loại để lại dấu ấn rõ nhất về con người đa tài này vẫn là thơ. Ngay
Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển khi quyết định trao giải cho ông cũng đã nói rõ Boris Pasternak được chọn " nhờ
những thành tựu xuất sắc trong thi ca trữ tình hiện đại, cũng như nhờ sự tiếp
nối truyền thống tiểu thuyết sử thi vĩ đại của văn học Nga".
Xuất
thân từ một gia đình trí thức - nghệ sĩ gốc người Do Thái, cha là hoạ sĩ, viện
sĩ Viện Hàn Lâm Nghệ thuật St Peterburg, mẹ là nhạc sĩ dương cầm, Boris Pasternak đã trải qua một tuổi
thơ êm đềm, thấm đẫm không khí nghệ thuật, xung quanh những khách giao du
thường xuyên là những nhân vật đã thành danh: nhà thơ Rainer Maria Rilke, nhà văn Lev Tolstoy, nhà soạn nhạc Sergey Rahmanina... Ông sớm yêu thích âm
nhạc và bỏ ra sáu năm để học nhạc. Đến 19 tuổi ông đột ngột từ bỏ âm nhạc để
theo học đại học ngành triết tại Nga và tại Đức ( từ 1909 đến 1913 ). Những tri
thức triết học đã giúp ông khám phá thiên hướng thơ ca tiềm tàng lâu nay chưa
trổi dậy. Năm 1914, ông in tập thơ đầu tiên " Sinh đôi trong đám mây
", gây được nhiều thiện cảm trong công chúng. Năm 1922, ông cho ra đời tập
thơ " Chị tôi, cuộc đời ", được các nhà thơ đương thời ( Maïakovski, Tsvetaïeva, Mandelstan, Ehrenburg ) tán
thưởng, ông nhanh chóng nổi
tiếng từ đây. Một năm sau ông xuất bản tiếp cuốn " Những chủ đề và biến
tấu ", đã viết từ năm 1918, nay mới công bố. Và những năm sau đó ông lần
lượt cho xuất bản nhiều thi tập khác. Ngay trong cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, ông dành hẳn phần cuối truyện để đưa
vào 25 bài thơ dưới nhan đề Thơ Yuri Zhivago, mà người đọc có thể hiểu là Thơ Boris Pasternak. Thơ của Yuri Zhivago hẳn là viết cho Lara, nhân vật nữ trong tiểu thuyết,
hoá thân của Olga Ivinskaya, tình
yêu lớn của tác giả những năm cuối đời. Tuy nhiên,
trong tất cả những bài thơ của tập này, chỉ có ba bài nhắc đến người tình Lara ( Mùa thu, Chia tay, Hẹn hò ), còn
những bài khác thuộc chủ đề và nguồn cảm hứng khác: Chức năng của nhà thơ (
Hamlet, Tháng tám, Bình minh ), hình ảnh cuộc sống trên đất nước Nga ( Cây hoa
bia, Hôn lễ ), và nhiều nhất là thiên nhiên ( Tháng ba, Đêm trắng, Mùa hè ở
thành phố ), nhất là mối giao hoà giữa tình cảm con người với thiên nhiên (
Gió, Mùa thu, Đêm đông... ).
Trong
vũ trụ thơ của Boris Pasternak, con
người là một yếu tố của phong cảnh. Phong cảnh không phải chỉ là bức tranh
tĩnh. Ông quan sát, cảm nhận, ghi chép và mô tả những hiện tượng thiên nhiên,
giông, bão, tuyết, gió, mặt trời mọc và lặn...Trong từng khoảnh khắc, ông đọc được
những tình cảm trên khuôn mặt của thiên nhiên. Ông so sánh tiếng động đánh thức
ông buổi sáng ở Venice như
những chiếc nĩa cắm sáu đến tận cán vào trong lớp sương mù. Ông viết về các
tháng, các mùa trong năm. Những bài thơ viết về tháng hai, tháng ba, tháng ba,
tháng tám... với những nét chấm phá gợi nhớ những tình cảm, những nhân vật liên
quan. Ông viết về đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Thu sầu, thu buồn nhưng vẫn
là thu quyến rũ, đông tàn, đông lạnh nhưng vẫn nồng ấm tình người, vẫn ngời
sáng niềm hy vọng:
Mọi vật đều tan biến trong
Màn tuyết trắng
Ngọn nến cháy trên bàn
Ngọn nến sáng.
Những
tình cảm đó không phải chỉ của riêng nhà thơ, cũng không phải chỉ gắn với cỏ
cây, mây nước, mà tất cả xuất phát từ Cuộc Sống, với ông, cuộc sống là đề tài
trữ tình đích thực của thơ, bởi " Con người sinh ra để sống, không phải
để chuẩn bị cho cuộc sống". Boris Pasternak tự đặt cho mình đạo đức của nhà văn mà
ông cố giữ đến cùng: Người nghệ sĩ không thể tuân theo ý muốn của một cá nhân
hay một thể chế chính trị nào. Nghệ thuật chỉ có thể có một lý tưởng phục vụ là
cuộc sống. " Chỉ có cuộc sống phải chỉ bảo cho con người xây dựng vũ trụ
tinh thần của mình. Người nghệ sĩ phải trung thành với cuộc sống, bằng cách chỉ
viết những tinh hoa của lương tâm mình".
Và hãy nhớ không phút giây phản bội
Niềm tin ta hằng ấp ủ bấy lâu
Điều quan trọng là nhớ luôn phải giữ
Nguồn sống cháy bùng mãi đến mai sau.
Trong
một bài viết có tính cách tự truyện, ông bộc bạch: " Mối quan tâm thường
xuyên của tôi là mỗi bài thơ, tự nó, phải chứa đựng một cái gì đó, một ý tưởng
mới, hay một khung cảnh mới". Và ông vẫn liên tục viết cho đến những năm
cuối đời, ốm đau, bệnh tật.
Ngày
30 tháng 5 năm 1960, Boris Pasternak qua
đời tại quê nhà, nhẹ nhàng, thanh thản. Lời cuối ông nói với các con là:
" Cha không còn nghe rõ. Trước mắt cha là màn sương mù, nhưng rồi sẽ tan
biến cả thôi. Ngày mai các con đừng quên mở cửa sổ!". Cái chết của
một người để lại cho văn học Nga ( và thế giới ) những tác phẩm giá trị gồm
nhiều thể loại, chỉ được thông báo bằng một mẩu tin nhỏ trên tờ " Literaturnaya Gazeta " ( báo
Văn học ). Ngay hôm sau nữ thi sĩ Anna Akhmatova viết bài " Cái chết của một nhà thơ
":
Tiếng nói không mô phỏng được đã tắt hôm qua
Người từng lên tiếng với núi rừng đã bỏ chúng ta
Để trở thành nhành non mang theo nguồn sống,
Thành cơn mưa mát lành người đã ngợi ca.
Và tất cả bông hoa rực rỡ tươi xinh
Đều bừng nở để đón chào người xa khuất
Rồi cõi lặng im bỗng ngập tràn cả hành tinh
Với danh xưng rất đỗi khiêm nhường: Trái đất.
Từ
khi ông qua đời cho đến thập niên 80 của thế kỷ trước, đất nước Liên Xô trải
qua nhiều thay đổi. Và rốt cuộc, điều phải đến đã đến: ngày 18 tháng 2 năm
1987, Ban Thư ký Hội Nhà Văn xoá bỏ quyết định khai trừ ông và khôi phục danh
dự cho ông. Năm 1988 tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago lần đầu tiên được xuất bản tại Liên Xô.
Năm
1990 được tổ chức UNESCO công
nhận là Năm Pasternak nhân
kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Cùng năm đó, bảo tàng mang tên Pasternak được thành lập tại Peredelkino, lưu trữ nhiều kỷ vật
và hình ảnh liên quan đến cuộc đời và tác phẩm của ông.
Ở
phạm vi rộng hơn, có thể ghi nhận việc tiểu hành tinh 3508 ( quay quanh Sao Mộc
và Sao Hoả ) do nhà thiên văn Nga Lyudmila Georgievna Karachkina phát hiện năm 1980
nay được đặt tên Pasternak.
Hiện
nay, Đại học Stanford ( Mỹ
) lưu trữ nhiều tài liệu liên quan đến Boris Pastrrnak và gia đình ông ( thư từ, bản thảo cuốn
Bác sĩ Zhivago và
những tác phẩm khác, hình ảnh và nhiều hiện vật khác nhau ).
Như
vậy là sau bao nhiêu thăng trầm, lịch sử đã thực hiện sự công bằng và nghiêm minh để
trả lại sự tôn vinh xứng
đáng với tài năng và cống
hiến của Boris Pasternak, nhà
văn, dịch giả, nhà thơ, Giải Nobel Văn
học 1958.
GIẤC MƠ
Anh
mơ thấy mùa thu qua ánh mờ ô cửa
Và
em, giữa đám bạn bè chếnh choáng ồn ào
Như
con chim ưng, từng quen giết mổ
Tim
anh quay về sà xuống giữa tay em.
Rồi
thời gian trôi, già nua và nghễnh ngãng
Như
lụa bọc ghế mục dần và tan rã như băng
Từ
phía vườn, ánh bình minh đang nhuộm
Các
ô kính với những giọt lệ đỏ sẫm lúc thu sang.
Rồi
thời gian trôi, già nua và nghễnh ngãng
Em
đang lớn tiếng bất chợt bỗng lặng thinh
Và
cơn mơ tàn lụi ngay như tiếng vọng
Thanh
âm vừa lịm tắt của hồi chuông ngân.
Anh
vừa tỉnh giấc. Như mùa thu ảm đạm
Ánh
rạng đông mờ nhạt. Cơn gió mạnh nổi lên
Lướt
qua hàng bạch dương giữa lưng trời xa thẳm
Như
suối rạ rơm trên cỗ xe chạy vút như tên.
GẶP GỠ (*)
Tuyết
rơi ngập kín cả đường
Mái
ngói nhà nhà tuyết phủ
Anh
vừa đứng dậy duỗi chân
Em
đứng bên ngoài khung cửa.
Em
khoác chiếc áo mùa thu
Không
giày, không cả nón mũ
Chừng
như em đang phấn khích
Chống
chọi cơn rét co ro.
Xa
xa, hàng rào, cây cối
Chìm
dần trong bóng tối mờ
Em
đứng nép mình trong góc
Dưới
màn tuyết trắng âm u.
Luồn
theo hai bên tay áo
Nước
chảy từ tấm khăn vuông
Trên
mái tóc em, rất nhỏ
Lấp
lánh từng giọt tuyết sương.
Dáng
người và cả khuôn mặt
Áo
mùa thu với khăn choàng
Hình
ảnh của em rất thật
Đang
được chiếu sáng rỡ ràng.
Trên
đôi mi em tuyết ướt
Mắt
em thoáng một nét buồn
Chỉ
qua từng đường nét nhỏ
Em
đà hiển hiện toàn thân.
Bút
sắt nhúng vào hoá chất
Bằng
cả nghệ thuật tuyệt vời
Tim
anh có ai đã khắc
Hình
em từng nét rạng ngời
Đường
nét đơn sơ khiêm tốn
Vẫn
còn lưu giữ rất lâu
Dẫu
đời chua cay ác độc
Cũng
không phai nhạt sắc màu.
Vào
đêm tuyết lạnh hôm ấy
Thế
là mọi thứ nhân đôi
Mặc
ai phân chia ranh giới
Giữa
hai chúng mình em ơi.
Ta
là ai, từ đâu tới
Và
rồi cũng phải ra đi
Nếu
qua chuỗi ngày hiện tại
Chỉ
còn những tiếng thị phi.
(
* nhan đề dịch theo bản tiếng Anh. Tham khảo nguyên tác tiếng Nga, bài này có
tên là Cвидание,
HẸN HÒ )
ĐỪNG SẦU MUỘN
Đừng
sầu muộn, đừng khóc, đừng dằn vặt,
Đừng
dày vò sức khoẻ, trái tim mình,
Em
còn đó, trong hồn anh, nguyên vẹn,
Như
cơ duyên, trụ đỡ, mối chân tình.
Anh
vẫn vững tâm, chẳng hề e ngại
Vẫn
bền lòng tin tưởng ở tương lai,
Ta
dứt bỏ mọi bịp lừa, gian dối,
Mối
giao hoà, cuộc sống, vẫn không rời.
Từ
nỗi buồn sầu héo hon yếu đuối
Đến
khoảng trời thoáng đãng trong lành
Là
sự chở che, lòng tin cậy, anh gởi
Như
lời thư nồng ấm tặng em của anh.
Tựa
chiếc phong bao, hãy mang cắt xé
Sự
giao lưu với Chân trời mới bắt đầu
Lời
em nói phải kiên cường như núi đá
Chế
ngự ngay mọi ý nghĩa thương đau.
Lấp
chỗ trũng những mặt hồ sâu thẳm
Với
khối kết tinh đất đá núi đồi,
Em
sẽ thấy anh chẳng hề giả tạo
Chỉ
biết buông lời chót lưỡi đầu môi.
Với
phước lành hãy yên tâm em nhé!
Tình
yêu, danh dự, không dễ mất đâu,
Như
mầm non, dưới mặt trời, vươn thẳng
Rồi
mọi chuyện sẽ đổi dạng thay màu.
NỔI TIẾNG
Chẳng
hay ho gì mà mong nổi tiếng
Có
chút danh đâu phải được tán dương
Ích
gì đâu khi gom từng trang viết
Lưu
trữ dần dà thành sách thành chương!
Sáng
tạo, thực ra chỉ là dâng hiến
Chứ
phải đâu gây bàn tán xôn xao
Không
thực chất, biến mình thành bia miệng,
Xét
cho cùng, thật xấu hổ làm sao!
Hãy
cố sống không khoe khoang hợm hĩnh
Cốt
làm sao sắp xếp chuyện trong ngoài
Thu
phục được tình yêu thương rộng khắp
Và
thấu hiểu được tiếng gọi của tương lai.
Trên
trang đời hãy
dành nhiều chỗ trống
Mà
không dành khoảng lặng giữa trang thơ
Đừng
ngại đánh dấu bên lề tất cả
Từng
khúc, từng chương số phận đời ta.
Và
sẽ đến lúc âm thầm lặng lẽ
Rút
lui dần, không để dấu vết nào,
Như
ánh mai trong sương thu mờ mịt
Che
khuất hết cảnh đất thấp trời cao.
Bao
người khác sẽ lần theo từng bước
Trên
những con đường ta đã đặt chân.
Nhưng
chính mình, ta chẳng nên phân biệt,
Chẳng
so bì thất bại với thành công.
Và
hãy nhớ không phút giây phản bội
Niềm
tin ta hằng ấp ủ bấy lâu
Điều
quan trọng là nhớ luôn phải giữ
Nguồn
sống cháy bùng mãi đến mai sau.
MÙA THU
Anh
đành để cho gia đình phân tán
Bao
người thân thiết lưu lạc khắp nơi
Một
lần nữa, nỗi cô đơn dằng dặc
Vây
bủa hồn anh, tràn ngập đất trời.
Túp
lều tranh, em và anh ẩn náu
Khu
rừng hoang vu không một bóng người
Lối
cũ đường mòn, như lời bài hát,
Cỏ
dại lan tràn phủ khắp nơi nơi.
Chỉ
chúng ta thôi đang ngồi ở đấy
Bức
tường gỗ mục buồn bã nhìn ta
Dẫu
không hứa phải vượt qua trở ngại
Ta
vẫn thực lòng chấp nhận chia xa.
Ta
bẫn bên nhau qua bao giờ khắc
Anh
đọc sách và em bận vá may
Khi
ta ngừng, thôi không hôn nhau nữa
Ta
nào hay đêm đã chuyển sang ngày.
Hỡi
lá rừng, hãy cứ rơi xào xạc
Lộng
lẫy hơn và cũng kiêu sa hơn.
Trong
chiếc cốc đắng cay ngày tháng cũ
Sầu
khổ hôm nay hãy rót cho tràn.
Tất
cả quyến luyến, hân hoan, say đắm,
Ta
tan vào trong ầm ĩ mùa thu
Hãy
vùi đắm trong tiếng thu xào xạc
Cứ
lặng im hay có thể điên rồ!
Em
ngã vào vòng tay anh âu yếm
Tấm
thân son trong vải lụa óng mềm
Em
khẽ lắc cho xiêm y trút xuống
Như
cây rừng trút hết lá rất êm.
Em
hạnh phúc trên đường anh khổ luỵ
Khi
cuộc sống tồi hơn cả thương đau
Và
can đảm là cội nguồn cái đẹp
Chính
là điều đưa ta đến với nhau!
KHÔNG ĐỀ
Thường
ngày em hiền lành và xa cách
Hôm
nay em cháy bỏng đến bất ngờ
Hãy
để anh mang em cùng nhan sắc
Giam
kín vào ngục tối của bài thơ.
Em
nhìn kia, mọi thứ đều biến đổi
Trong
vầng lửa toả dưới ánh đèn mờ
Cuối
bức tường, và bên rìa cửa sổ,
Soi
dáng vẻ và hình bóng đôi ta.
Em
lặng lẽ ngồi yên trên ghế nệm
Hai
chân thu kiểu dáng thật uy nghi
Bất
kể ngoài sáng hay trong tối
Cách
em nói vẫn con trẻ ngây thơ.
Em
mơ màng, tay lần xâu chuỗi hạt
Những
hạt cườm rớt xuống vạt áo em
Nhìn
vẻ mặt em đang buồn rười rượi
Nghe
em nói cũng chẳng vui gì thêm.
Hai
tiếng Tình yêu nghe tầm thường quá
Anh
sẽ tìm từ ngữ khác đem thay
Rồi
vì em, anh sẽ đặt tên mới
Cho
mọi sự vật trên thế giới này.
Có
thể nào khuôn mặt buồn giấu được
Những
rộn ràng tiềm ẩn trong tâm hồn?
Và
trái tim luôn nồng nàn rạo rực?
Vậy
cớ sao em để cặp mắt buồn?
CÂY HOA BIA (*)
Dây
trường xuân phủ quanh cây liễu
Chúng
mình đứng nép tránh cơn giông
Sát
hai vai che chung áo khoác
Tay
anh ôm chặt em vào lòng.
Rừng
đây không có trường xuân mọc
Chỉ
có hoa bia - anh nhầm rồi
Chắc
tại bên em anh mê muội
Lấy
áo ra trải xuống đất thôi.
(*
hops, tiếng Pháp houblon, loại dây leo, hoa dùng
để làm bia )
GIÓ
Em
vẫn sống - anh không còn nữa
Và
cơn gió rên rỉ than van
Lay
động cả rừng cây nhà cửa
Đâu
chỉ riêng lẻ từng gốc thông.
Bao
nhiêu cây cối trong rừng thẳm
Cả
khoảng không gian rộng mênh mông,
Khác
nào chiếc thuyền buồm neo gió
Giữa
cảnh trời mưa gió bão giông.
Nhưng
phải đâu vì gió
ngạo mạn
Hay
là bởi giận dữ vu vơ
Mà
chỉ muốn qua lời sầu thảm
Gởi
tặng em một điệu hát ru.
ĐÊM ĐÔNG
Tuyết
trắng cả đất trời
Khắp
nơi nơi
Ngọn
nến cháy trên bàn
Ngọn
nến sáng.
Như
bầy ruồi mùa hè
Lao
vào ngọn lửa
Những
bông tuyết ngoài sân
Quất
vào ô cửa.
Tuyết
vẽ trên ô kính trắng
Hình
mũi tên và vòng xoắn
Ngọn
nến cháy trên bàn
Ngọn
nến sáng.
Những
chiếc bóng chập chờn đổ lên
Trần
nhà sáng
Hình
chân tay vặn vẹo
Số
phận quyện vào nhau.
Hai
chiếc giày nhỏ bất chợt
Rơi
xuống sàn
Giọt
lệ nến từ chiếc đèn đêm
Rớt
trên áo choàng.
Mọi
vật đều tan biến trong
Màn
tuyết trắng
Ngọn
nến cháy trên bàn
Ngọn
nến sáng.
Góc
nhà gió khêu ngọn lửa
Hơi
nóng chừng như cám dỗ
Bay
lên đôi cánh thiên thần
Có
bóng hình cây thánh giá.
Tháng
hai tuyết vẫn cứ rơi
Suốt
cả tháng
Ngọn
nến cháy trên bàn
Ngọn
nến sáng.
GIẢI THƯỞNG NOBEL
Con
người, tự do và ánh sáng
Vẫn
quanh đây, nhưng trên bước chân đi
Tôi
nghe tiếng gầm gừ bầy thú dữ
Vây
chặn tôi, dồn vào chốn hiểm nguy.
Rừng
thăm thẳm, và bên hồ nước
Còn
chơ vơ một gốc thông già,
Ngẫm
ra e không còn lối thoát
Đành
phó mặc cho tai hoạ xảy ra.
Mà
tôi đã làm điều chi tội lỗi
Là
quái vật hay là kẻ sát nhân?
Tôi
chỉ làm cho thế gian rơi lệ
Trên
đất mẹ đẹp đẽ vô ngần!
Nhưng
dù đã cận kề cái chết
Tôi
vẫn tin sẽ sớm đến ngày
Hận
thù sỉ nhục phải lùi bước
Trước
sức mạnh lẽ phải lòng ngay.
( Thơ
dịch theo bản tiếng Anh của poemhunter.com )
THÂN TRỌNG SƠN
dịch
và giới thiệu