"Phương thuốc" ( nguyên tác có tên là 药 Dược ) là truyện ngắn rất nổi tiếng của Lỗ Tấn, với nghệ thuật độc đáo, vừa hiện thực, vừa có nhiều hình tượng ẩn dụ sâu sắc, mở cho người đọc, tuỳ nhãn quan và kinh nghiệm, nhiều cách hiểu và cảm thụ khác nhau.
Phương thuốc ở đây là phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người. Thật ghê rợn, lạc hậu và phản khoa học ( truyện viết năm 1919 ). Cũng giống như phương thuốc trị bệnh phù thủng của bố Lỗ Tấn ( rễ cây mía đã kinh sương ba năm, và đôi dế, con đực và con cái ). Hậu quả còn hơn tiền mất tật mang mà là tính mạng người bệnh. Không phải chỉ một gia đình tin vào phương thuốc lạ lùng đó mà còn có biết bao nhiêu người, xô nhào nhau để mong kiếm được.
Tập quán chữa bệnh phản khoa học đó là một trong những biểu hiện của tình trạng mê muội của nhân dân Trung Quốc trong xã hội cũ, kể cả u mê lạc hậu về chính trị nữa. Người tử tù, hẳn là một chiến sĩ cách mạng, bị mọi người cho là làm giặc, là điên, bị người thân tố cáo để được thưởng...
Tác giả đã cho hai người mẹ, mẹ của người bệnh và mẹ của tử tù, gặp nhau khi đi thăm mộ con nơi nghĩa địa phân biệt hai bên, dành cho người chết chém hoặc chết tù một bên, và bên kia dành cho người nghèo. Hai người hai tâm trạng, rồi cùng ngạc nhiên khi thấy có vòng hoa ai lén đặt trên mộ người tử tù. " Thế là thế nào? " không ai lý giải được. Và kết thúc là hình ảnhcon chim quạ đen vụt bay thẳng về phía chân trời xa.
Phương thuốc nào để chữa được bệnh, bệnh y học và bệnh xã hội? Ý tứ tác giả chỉ nêu sự kiện ( tất nhiên có phê phán) và mở ra hướng nhìn xa thế thôi.
Cũng nên ghi nhận thêm là từ năm 2010, truyện Phương thuốc này đã được loại ra khỏi sách giáo khoa ngữ văn của Trung Quốc. ( theo 广州日报 Quảng châu nhật báo : 各地语文课本内容大改, 鲁迅作品接近消失 ( các vận ngữ văn khoá bản nội dung đại cải, Lỗ Tấn tiếp cận tác phẩm tiêu thất ).
Dịch từ một bản dịch là điều "chẳng đặng đừng " vì luôn có nhiều rủi ro, nếu không dựa vào một nguồn có uy tín và được tin cậy.
Bản Việt dịch này lấy từ nguồn trang http://www.chinese-shortstories.com của Brigitte Duzan, nhà văn, nhà ngôn ngữ, dịch giả, tốt nghiệp trường luật và ngoại giao của Hoa Kỳ ( Fletcher School of Law and Diplomacy ), viện ngôn ngữ Luân Đôn của Anh ( Institute of Linguists ) và viện ngôn ngữ và văn hoá phương Đông của Pháp ( INALCO, Institut national des langues et civilisations orientales ).
Trang web nêu trên, tuy lấy tên tiếng Anh, chuyên giới thiệu bằng tiếng Pháp truyện ngắn Trung Quốc hiện đại, với những chỉ dẫn về tác giả, tác phẩm và những chú thích cặn kẽ về từ vựng.
Ngoài ra, Brigitte Duzan còn chủ trương một trang khác, chuyên về điện ảnh ( http://chinesemovies.com.fr ).
Trong bản dịch dưới đây, xin được phép chuyển một đôi chữ để hợp với tiếng Việt, petit pain dịch là bánh bao, chẳng hạn.
Phương thuốc ở đây là phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người. Thật ghê rợn, lạc hậu và phản khoa học ( truyện viết năm 1919 ). Cũng giống như phương thuốc trị bệnh phù thủng của bố Lỗ Tấn ( rễ cây mía đã kinh sương ba năm, và đôi dế, con đực và con cái ). Hậu quả còn hơn tiền mất tật mang mà là tính mạng người bệnh. Không phải chỉ một gia đình tin vào phương thuốc lạ lùng đó mà còn có biết bao nhiêu người, xô nhào nhau để mong kiếm được.
Tập quán chữa bệnh phản khoa học đó là một trong những biểu hiện của tình trạng mê muội của nhân dân Trung Quốc trong xã hội cũ, kể cả u mê lạc hậu về chính trị nữa. Người tử tù, hẳn là một chiến sĩ cách mạng, bị mọi người cho là làm giặc, là điên, bị người thân tố cáo để được thưởng...
Tác giả đã cho hai người mẹ, mẹ của người bệnh và mẹ của tử tù, gặp nhau khi đi thăm mộ con nơi nghĩa địa phân biệt hai bên, dành cho người chết chém hoặc chết tù một bên, và bên kia dành cho người nghèo. Hai người hai tâm trạng, rồi cùng ngạc nhiên khi thấy có vòng hoa ai lén đặt trên mộ người tử tù. " Thế là thế nào? " không ai lý giải được. Và kết thúc là hình ảnhcon chim quạ đen vụt bay thẳng về phía chân trời xa.
Phương thuốc nào để chữa được bệnh, bệnh y học và bệnh xã hội? Ý tứ tác giả chỉ nêu sự kiện ( tất nhiên có phê phán) và mở ra hướng nhìn xa thế thôi.
Cũng nên ghi nhận thêm là từ năm 2010, truyện Phương thuốc này đã được loại ra khỏi sách giáo khoa ngữ văn của Trung Quốc. ( theo 广州日报 Quảng châu nhật báo : 各地语文课本内容大改, 鲁迅作品接近消失 ( các vận ngữ văn khoá bản nội dung đại cải, Lỗ Tấn tiếp cận tác phẩm tiêu thất ).
Dịch từ một bản dịch là điều "chẳng đặng đừng " vì luôn có nhiều rủi ro, nếu không dựa vào một nguồn có uy tín và được tin cậy.
Bản Việt dịch này lấy từ nguồn trang http://www.chinese-shortstories.com của Brigitte Duzan, nhà văn, nhà ngôn ngữ, dịch giả, tốt nghiệp trường luật và ngoại giao của Hoa Kỳ ( Fletcher School of Law and Diplomacy ), viện ngôn ngữ Luân Đôn của Anh ( Institute of Linguists ) và viện ngôn ngữ và văn hoá phương Đông của Pháp ( INALCO, Institut national des langues et civilisations orientales ).
Trang web nêu trên, tuy lấy tên tiếng Anh, chuyên giới thiệu bằng tiếng Pháp truyện ngắn Trung Quốc hiện đại, với những chỉ dẫn về tác giả, tác phẩm và những chú thích cặn kẽ về từ vựng.
Ngoài ra, Brigitte Duzan còn chủ trương một trang khác, chuyên về điện ảnh ( http://chinesemovies.com.fr ).
Trong bản dịch dưới đây, xin được phép chuyển một đôi chữ để hợp với tiếng Việt, petit pain dịch là bánh bao, chẳng hạn.
1.
Một đêm thu, lúc tờ mờ sáng,
trăng đã lặn nhưng mặt trời chưa lên, chỉ một dải trời xanh thẫm, mọi thứ đều
ngủ yên, trừ vài con vật ăn đêm. Lão Hoa Thuyên bất chợt ngồi dậy trên giường,
bật que diêm, châm ngọn đèn bê bết dầu, ánh đèn xanh nhạt sáng khắp hai gian
quán trà.
"Ông đi đấy à? ",
tiếng một người đàn bà đã có tuổi. Ở căn phòng nhỏ bên cạnh nổi lên một cơn ho.
"Ừ..."
Lão Thuyên
đáp, vừa lắng tai nghe, vừa cài nút áo, rồi, chìa tay ra, nói tiếp:
"Đưa đây tôi! "
Bà Hoa mò dưới cái gối một
lát, lấy ra một gói bạc đồng đưa cho chồng. Lão cầm lấy bỏ vào túi, tay run run
vuốt hai lần phía ngoài túi, rồi thắp cái đèn lồng, thổi tắt ngọn đèn dầu, đi về
phía giữa phòng. Bên trong có tiếng sột soạt, chợt ngắt quãng bởi
một cơn ho dữ dội. Lão Thuyên chờ cơn ho dịu lại mới khẽ nói: " Thuyên à,
con khỏi phải dậy... Cửa hàng, đã có mẹ con lo".
Không nghe con trả lời, lão
nghĩ là nó đã ngủ yên lại rồi nên đi ra. Trời vẫn còn tối đen, đường sá vắng lặng.
Chỉ trông thấy được mặt đường xam xám. Chiếc đèn lồng chiếu vào trước và sau
chân lão. Thỉnh thoảng gặp vài con chó, nhưng chẳng có con nào buồn sủa. Trời lạnh
hơn trong nhà nhiều nhưng lão cảm thấy mát mẻ,sảng khoái như bỗng dưng mình trẻ
lại và ai cho phép thần thông cải tử hoàn sinh, lão sãi bước dài. Trời cũng
sáng dần, càng lúc càng nhìn rõ đường hơn.
Đang chăm chú đi, lão bỗng
giật mình, xa xa thấy ngã ba đường hiện rõ. Lão bước lui vài bước ngập ngừng, đến
ẩn mình dưới mái hiên một cửa hiệu còn đóng kín mít, đứng tựa cửa. Một lúc sau,
lão chợt thấy lạnh.
" Kìa, một ông
già."
"Ông có vẻ hài
lòng..."
Lão lại giật mình, trố mắt
nhìn, có mấy người đi ngang qua. Một người trong bọn quay đầu lui phía lão, lão
không trông rõ mặt, nhưng từ đôi mắt toát ra vẻ thèm thuồng, như người đói đã
lâu nay thấy thức ăn. Lão nhìn chiếc đèn lồng, đèn đã tắt. Lão sờ vào túi, cái
gói cồm cộm vẫn còn đó. Lão ngước đầu nhìn xung quanh và thấy đám đông người kỳ
dị từng nhóm hai, ba người một đi đi lại lại như những bóng ma, tuy nhiên, nhìn
kỹ lại thì không thấy gì quái lạ nữa cả.
Một lát sau, lại thấy mấy
người lính từ xa đi tới, lão thấy rõ miếng vải tròn trắng trên lưng và trên vạt
trước áo đồng phục, khi họ đi ngang qua, lão nhìn thấy cả đường viền màu đỏ thẫm
thêu vào áo. Tiếng chân bước ào ào, trong nháy mắt, cả nhóm người tụm lại, những
người đi theo nhóm hai ba người lúc nãy cũng dồn lại thành khối, rồi tất cả xô
nhào tới như cơn sóng, khi sắp tới chỗ ngã ba thì dừng lại, vây thành nửa vòng
tròn.
Lão Thuyên cố nhìn, nhưng chỉ
thấy lưng của đám người đang hết sức giương cổ lên, như những con vịt bị bàn
tay vô hình nào nắm lấy cổ xách lên. Yên lặng được một lát, rồi như có tiếng nổ,
đám đông xô đẩy nhau, ồn ào lùi lại phía sau, rồi tản ra ngay chỗ lão đứng,
suýt chen ngã lão.
" Này! Đưa tiền đây rồi
cầm lấy hàng này", một người mặc toàn đồ đen đứng ngay trước mặt lão nói.
Lão co rúm người lại, cảm thấy đôi mắt gã kia xoáy vào người như những lưỡi dao
găm. Hắn chìa một bàn tay to lớn ra, tay kia cầm một chiếc bánh bao nhúng vào một
thứ nước đỏ tươi nhỏ từng giọt xuống đất.
Lão Thuyên vội nắm lấy tiền
định đưa cho hắn, nhưng không dám cầm thứ hắn đang nắm trong tay. Gã kia nổi
cáu, nói to: " Sợ cái gì? Sao không cầm lấy?" Thấy Lão Thuyên vẫn do
dự, hắn giật lấy cái đèn lồng, xé mảnh giấy lấy gói cái bánh và ấn vào tay lão,
rồi chộp lấy bạc, nắn nắn và quay
gót bỏ đi, miệng càu nhàu: " Cái lão già này!"
Lão Thuyên có cảm tưởng như
nghe có ai hỏi:"Để chữa bệnh gì đấy?" nhưng lão không trả lời, tâm trí
lão chỉ chú ý tới cái gói đang cầm, như nhà mười đời độc đinh nâng niu đứa con,
không nghĩ chuyện gì khác. Hiện lão đang đem mầm sống mới trong tay về cấy
trong gia đình lão, và chờ đợi hạnh phúc vô biên nó hứa hẹn mang lại. Mặt trời
đã mọc, soi rõ con đường lớn dẫn thẳng đến nhà lão, và chiếu sáng luôn, sau
lưng lão, nơi ngã ba, cái bảng mục nát trên có ghi mấy chữ thếp vàng đã nhạt
màu: " Cổ ... đình khẩu " (1)
2.
Khi lão Thuyên về tới nhà,
quán trà đã được quét dọn, sắp xếp, các dãy bàn sạch bóng xếp đặt ngăn nắp.
Nhưng quán không có khách, chỉ có thằng nhỏ Thuyên đang ngồi ăn nơi dãy bàn giữa,
mồ hôi nhễ nhại trên
trán nhỏ giọt, chiếc áo kép dính vào lưng, làm hai xương bả vai gồ lên thành
hình chữ V lộn ngược in nổi (2). Thấy con như vậy, lão không khỏi chau mày. Vợ
lão từ dưới bếp chạy ra, nhìn lão chằm chặp, đôi môi run run.
"Ông có đấy chưa?"
" Có rồi."
Hai người cùng đi vào bếp,
bàn bạc một hồi. Bà Hoa đi ra, một lát cầm về một lá sen khô, trải lên mặt bàn.
Lão mở mảnh giấy từ chiếc đèn lồng, lấy chiếc bánh bao đỏ ra, bọc trong lá sen.
Thằng Thuyên vừa ăn xong, mẹ nó vội nói: "Thuyên, con cứ ngồi đó, đừng vào trong
này."
Lão Thuyên thổi lửa trong bếp,
rồi cho vào bếp
cái gói lá xanh và mảnh giấy trắng đỏ xé từ lồng đèn: một ngọn lửa đỏ sẫm bốc
lên, và một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà.
" Thơm quá nhỉ! Các bác
đang ăn gì đấy?"Đó là cậu Năm Gù vừa mới tới. Ngày nào cậu cũng ghé lại
quán trà, sáng đến đầu tiên, chiều về cuối cùng. Vào ngay lúc này, cậu vừa đi
bước thấp bước cao đến cái bàn kê ở góc, phía đường cái, ngồi xuống rồi lên tiếng
hỏi. Nhưng không ai trả lời.
"Cơm chiên đấy
à?" Vẫn không ai trả lời. Lão Thuyên vội đi ra pha trà cho cậu.
" Thuyên ơi! Vào đây
con! "
Bà Hoa cao giọng gọi con từ
phòng bên kia, bà đặt chiếc ghế đẩu ngay giữa nhà cho con ngồi, mang cái dĩa nhỏ
lại, trên dĩa có vật gì tròn tròn, đen như than, bà nhỏ nhẹ nói với con:
"Ăn đi con... Tốt cho con lắm đó!"
Thằng Thuyên cầm lấy vật đen
thui đó, nhìn kỹ một lúc, có cảm giác lạ lùng không sao nói được, như đang cầm
mạng sống của mình trong tay. Nó cẩn thận bẻ ra, và từ bên dưới lớp vỏ cháy sém
bốc lên một làn khói trắng, khi làn hơi tan đi, lộ ra hai nửa của chiếc bánh
bao làm bằng bột mì trắng. Hắn nuốt trọn ngay vào bụng, chẳng còn nhớ mùi vị thế
nào, trước mặt chỉ còn cái dĩa trống trơn. Cạnh nó, bà mẹ đứng một bên, cha nó
đứng một bên, đưa mắt nhìn nó như thể muốn rót vào người con một cái gì, đồng
thời cũng muốn lấy ra một cái gì. Tim nó đập mạnh, nó không sao ngăn được, tay
đè lên ngực, và lại nổi cơn ho.
" Ráng ngủ một lát con,
sẽ đỡ hơn đấy!"
Thuyên nghe lời mẹ, đi ngủ,
nhưng vẫn còn ho. Bà Hoa đợi nghe tiếng thở đều mới nhẹ nhàng lấy cái mền vá chằng
chịt đắp cho con.
3.
Quán trà rất đông khách, Lão
Thuyên bận rộn, tay xách cái ấm đồng đi rót trà cho khách, hai mắt lão thâm quầng.
"Bác Thuyên, bác có gì
không ổn sao? Hay là bệnh rồi?", một ông râu hoa râm nói.
" Có sao đâu."
" Không sao à?... Mà
trông rạng rỡ thế kia, chắc là không phải..."Ông râu hoa râm bỏ lửng câu
nói.
" Chỉ tại ông ta bận rộn
quá đấy thôi. Giá mà thằng con... " cậu Năm Gù cũng chưa nói hết câu thì một
người có khuôn mặt khó coi đâm sầm vào, hắn mặc chiếc áo vải thô đen, hở ngực,
thắt lưng đen cẩu thảquấn ngang người. Vừa bước vào khỏi cửa, hắn đã nói lớn với
Lão Thuyên:" Nó ăn chưa? Đỡ rồi chứ? Ông Thuyên, may phúc cho nhà ông đó!
May phúc thật đó, nếu tôi không khôn khéo biết được tin..."
Một tay xách ấm trà, Lão
Thuyên đứng yên vẻ cung kính, cười thật tươi đón nhận những lời kia. Mọi người
ngồi trong quán cũng chăm chú nghe có vẻ kính trọng. Bà Hoa, mắt cũng thâm quầng,
nhưng mặt tươi rói, đem đến một cái tách, bỏ vào mấy lá trà và thêm một quả
trám, Lão Thuyên chế nước sôi vào.
" Hiệu quả bảo đảm đấy!
Đâu phải như các thứ khác. Ông cứ nghĩ coi, đem về còn nóng hổi, ăn ngay tức
thì." người có khuôn mặt khó coi vẫn cứ oang oang.
Bà Hoa hết lời cám ơn hắn.
"Đúng vậy đấy, nếu bác Khang đây không giúp thì làm sao chúng tôi có thể..."
"Ăn ngay khi còn nóng hổi
như thế, cam đoan thế nào cũng khỏi, thế nào cũng khỏi. Bánh bao tẩm máu người
như vậy, bệnh lao gì cũng khỏi! "
Nghe nhắc đến " lao
", Bà Hoa hơi tái mặt, như bất chợt không được vui, nhưng cũng gượng
cười, rồi xin lỗi, bỏ đi. Tuy nhiên, ông Khang đó vẫn không để ý, cứ tiếp tục
cao giọng huyên thuyên, phòng bên cạnh, thằng Thuyên đang nằm ngủ phải ho lên
như phụ hoạ theo.
" Phải nói là thằng
Thuyên nhà ông may phúc thật. Hắn sẽ khỏi hẳn, chắc chắn rồi, thảo nào ông cười
tươi thế.", người có râu hoa râm vừa nói vừa đi tới gần ông Khang và hạ thấp
giọng hỏi:" Tôi nghe nói tên tội phạm mới bị xử hôm nay là con nhà họ Hạ,
nhưng là đứa nào? Và chính xác là tội gì?"
"Đứa nào à? Thì con
trai mụ Tư Hạ chứ còn ai, cái thằng vô lại đó."
Thấy mọi người chăm chú lắng
nghe mình, ông Khang ưỡn ngực, mặt thoả mãnphị ra, lớn tiếng nói: " Cái thằng
vô tích sự đó không muốn sống nữa, thế thôi.Trong vụ này, tôi chẳng lợi lộc gì,
ngay bộ áo quần hắn mặc cũng rơi vào tay viên quản lao rồi. Người may mắn nhất ở đây là
lão Thuyên, người thứ hai là cụ Hạ, cụ ẵm trọn khoản tiền thưởng, hai mươi lăm
lạng bạc trắng như tuyết, một mình hưởng trọn, chẳng phải chia cho ai một
xu."
Thằng Thuyên từ phòng bên cạnh
từ từ bước ra, hai tay khoanh trước ngực, ho lấy ho để. Nó đi tới gần bếp, lấy
một bát cơm nguội, chan nước nóng vào và ngồi xuống ăn. Bà Hoa theo dõi
nó, dịu dàng hỏi:" Thuyên, con thấy đỡ hơn không? Con vẫn cứ hay đói
bụng thế à?"
" Bảo đảm là sẽ khỏi! Bảo
đảm là sẽ khỏi!"Ông Khang lén nhìn thằng Thuyên, rồi quay sang nói với đám
đông khách hàng: " Cụ Ba thiệt là khôn lanh, giá như cụ không đi trình
quan trước thì cụ đã bị chém cả nhà, tài sản bị tịch thu sạch. Vậy mà bây giờ?
Cụ có khối bạc! Còn thằng nhỏ kia, đúng là thứ vô lại, ngay khi ở trong tù, hắn
còn cố xui tay quản lao bạo loạn nữa đó."
" Vậy sao, thật không
tưởng tượng nổi", một anh chàng trạc hai mươi tuổi, ngồi ở dãy bàn sau, tức
giận nói.
" Các vị cũng nên nhớ rằng
viên quản lao đã tới hỏi hắn để thăm dò, nhưng nó lại tranh luận với ông ta. Hắn
bảo ông là thiên hạ nhà Thanh là tài sản chung của tất cả chúng ta. Nghĩ coi,
nói vậy có phải lẽ không? Quản lao biết rằng nhà hắn chỉ còn bà mẹ già, nhưng
không bao giờ nghĩ là hắn nghèo đến thế, chẳng moi được đồng xu nào, chừng đó
đã giận lắm rồi. Thế mà tay kia vượt quá giới hạn đi, ông mới cho ăn hai cái bạt
tai."
" Quản lao là người giỏi
võ, hai cái tát đó cũng đủ thấm đòn rồi", ngườigù trong góc lên tiếng, có vẻ
bất ngờ sảng khoái.
" Tên vô lại đâu có
ngán đòn. Hắn còn nói thật tội nghiệp, tội nghiệp."
" Tên đó bị sửa trị như
thế là đúng rồi, chẳng có gì tội nghiệp ", người có râu hoa râm nói.
Ông Khang nhìn chàng kia, vẻ
khinh khỉnh và lạnh lùng đáp: "Ông không hiểu ý tôi nói rồi. Theo cách mà
tên kia nói, rõ ràng hắn muốn nhắc đến quản lao khi nói tội nghiệp."
Những tia nhìn bỗng nhiên
chùng xuống, cuộc thảo luận cũng ngừng. Thằng Thuyên vừa ăn xong, mặt mũi đầy mồ
hôi như có hơi toát ra.
" Quản lao tội nghiệp
-- hoạ có điên mới nói vậy, phải tin là hắn đã phát điên rồi", người có
râu hoa râm nói, như bất chợt vỡ lẽ ra..
"Điên rồi đó ",
chàng trai trạc hai mươi lặp lại, cũng có vẻ như bỗng vỡ lẽ ra.
Không khí trong quán trà sôi
nổi trở lại, mọi người lại đua nhau nói nói cười cười. Thằng Thuyên nhân lúc ồn
ào bật ho rũ rượi, ông Khang tới gần vỗ vai nó nói:
" Bảo đảm sẽ khỏi thôi!
Thuyên à, cháu sẽ không còn ho như thế nữa. Bảo đảm sẽ khỏi!"
"Điên thật rồi!" Cậu
Năm Gù gật đầu nói.
4.
Miếng đất nằm dọc tường
thành bên ngoài cửa Tây vốn là đất công, ở giữa có con đường mòn ngoằn nghoèo
nhỏ hẹp, do những người muốn đi đường tắt giẫm mãi lên mà thành, giờ nó lại biến
thành cái mốc giới tự nhiên. Bên trái là nơi chôn những người chết chém hoặc chết
tù, bên phải là nghĩa địa của người nghèo. Cả hai nơi, mộ chôn dày khít từng
hàng, như bánh bao nhà giàu sắp lớp ngày mừng thọ.
Lễ thanh minh năm ấy, trời lạnh
bất thường, những cây liễu và cây dương (3) chỉ mới đâm ra được những mầm non bằng
nửa hạt gạo. Trời vừa rạng sáng đã thấy bà Hoa đứng trước một ngôi mộ mới, phía
bên phải con đường, bà bày ra bốn dĩa thức ăn và một chén cơm, rồi khóc. Sau
khi đốt vàng mã, bà ngồi bệt xuống đất, thẫn thờ như đang chờ đợi cái gì, mà thực
ra chính bà cũng không biết nữa. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc ngắn của bà, tóc
đã bạc nhiều đi từ năm ngoái đến nay.
Một người đàn bà khác trên
đường đi tới, cũng đầu bạc một nửa, áo quần rách rưới, xách cái giỏ tròn nhỏ sơn
đỏ đã cũ nát, phía ngoài giắt thếp vàng mã, cứ đi tới ba bước lại dừng lại để
thở. Chợt thấy bà Hoa ngồi dưới đất đang nhìn mình, bà thoáng chút ngập ngừng,
trên khuôn mặt xanh xao hiện rõ nét xấu hổ. Rồi bà cũng lấy hết can đảm đi về
phía ngôi mộ bên trái, đặt chiếc giỏ xuống.
Ngôi mộ này và mộ của nhỏ
Thuyên nằm cùng hàng, chỉ cách nhau con đường mòn. Bà Hoa thấy bà già này đặt bốn
dĩa thức ăn và chén cơm, rồi khóc một hồi mới đốt vàng giấy, thì nghĩ thầm
trong bụng: " Chắc cũng là con trai bà nằm đấy rồi! " Bà kia nhìn
quanh, bước vài bước, bỗng bật run lên, loạng choạng đi thụt lùi, mắt trợn trừng,
nhìn ngơ ngác mông lung.
Bà Hoa thấy thế, sợ bà kia
thương con quá phát điên rồi, cầm lòng không đậu, bà đứng dậy, sang bên kia đường,
khẽ nói: " Bà ơi, thôi đừng thương khóc chi nữa. Ta về đi thôi!"
Bà kia gật đầu, mắt vẫn nhìn
trừng trừng rồi nói khẽ như đang thở dài:
" Kìa, bà nhìn kìa, cái
gì thế này?"
Bà Hoa nhìn về phía ngón tay
chỉ, thấy nấm mộ trước mặt: cỏ chưa phủ hết, lỗ chỗ còn thấy đất vàng khè, rất
khó coi, nhìn kỹ phía trên, bất giác giật mình: thấy rõ ràng một vòng hoa đỏ và
trắng, nằm khoanh trên nấm mộ.
Cả hai bà, mắt đã loà từ lâu rồi, nhưng những bông hoa đỏ trắng
này thì trông rõ lắm. Hoa không nhiều, cũng không nổi bật lắm, nhưng được xếp
thành vòng tròn, ngay ngắn. Bà Hoa ngắm kỹ mộ con mình và những nấm mộ khác, chỉ
thấy rải rác vài nụ hoa bé tí, nhợt nhạt, vẫn chống chọi với giá lạnh, bà
chợt thấy lòng trống trải, thiếu vắng, không muốn tìm hiểu thêm. Bà kia tiến
thêm vài bước, nhìn kỹ dưới đất, như nói cho chính mình: " Chúng không có
gốc, không tự nở ở đây được. Vậy thì ai đến đây? Trẻ con đâu có đứa nào chơi ở
đây, bà con họ hàng cũng không đến sớm vậy... Thế là thế nào?"
Bà kia nghĩ đi nghĩ lại, bỗng
bật lên khóc, nói lớn:
" Con ơi (4) , chúng vu
oan cho con, và con không quên được, đau lòng lắm, vậy giờ này đây con hiển hiện
lên cho mẹ biết, được không con?"
Bà nhìn quanh, chỉ thấy có
con quạ, đậu trên cây trụi lá, bà nói tiếp:
" Mẹ biết rồi, con
ơi... Chúng chôn sống con, nhưng ông trời có
mắt, rồi một ngày kia chúng sẽ trả giá, thôi nhắm mắt đi con, đừng bận lòng nữa
con... nếu con ở nơi đây, con nghe mẹ nói, báo cho mẹ biết đi con, con xui con
quạ đến đậu trên mộ con đi."
Gió đã dịu, ngọn cỏ khô dựng
đứng, cứng như dây đồng, một giọng rên rỉ vang lên trong không trung, nhỏ dần,
nhỏ dần, rồi im bặt. Không khí vắng lặng chết chóc. Đứng giữa đống cỏ khô, đầu
ngẩng lên, hai người đàn bà nhìn con quạ: nó vẫn đậu thẳng trên cành cây, rụt cổ
vào, như đúc bằng đồng. Thời gian qua, những người đi viếng mộ ngày càng
thêm nhiều, đủ mọi lứa tuổi, họ
đi ngang qua những nấm mộ, như những bóng ma.
Bà Hoa cảm thấy như trút bỏ
được một gánh nặng mà chính bà cũng không giải thích được, bà bỗng muốn đi về
nhà, nói với bà kia: " Thôi ta về đi!" Bà kia thở ra, gom mấy dĩa thức
ăn lại, vẻ uể oải, ngập ngừng một lúc, rồi chậm rãi ra về, miệng vẫn lẩm bẩm:
" Thế là thế nào nhỉ?" ...
Cả hai mới đi chưa tới hai
chục bước thì nghe có tiếng "Oạ..." rất to từ phía sau. Họ kinh hoàng
ngoảnh lại, chỉ là con quạ thôi, nó xoè đôi cánh, nhún mình, lao vút như mũi
tên, bay thẳng về phía chân trời xa.
Tháng tư 1919.
__________________
(1) Pavillon des jours anciens. Từ khó dịch,
tham khảo và dịch theo bản gốc:
古□亭口. (
Cổ ... đình khẩu ).
(2) Tức là
chữ "bát "八.
(3) Dịch từ "les saules et les peupliers". Đúng ra phải là cây dương liễu,
như trong nguyên tác 杨柳 .
(4) Du ơi. Dịch giả bản
tiếng Pháp đã lược bỏ tên nhân vật ( Du ). Nguyên tác 瑜儿 (
Du nhi ) . Đây là tử tù được nói đến trong đoạn 3. ( Hạ Du ).
Có thể nghe đọc bản tiếng
Pháp ( le remède ) ở
đây:
THÂN TRỌNG SƠN
dịch từ bản tiếng Pháp