Hình 1: Linh Đài với
Ba Cây Đa cao 20 mét tượng trưng cho Ba Ngôi được dựng nơi Đức Mẹ đã hiện ra,
với tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng. Có người cho rằng đây là tác phẩm của Kiến
trúc sư Ngô Viết Thụ nhưng chi tiết khắc trên đá nơi sau chân tượng gốc ghi là
của Điêu khắc gia Nguyễn Văn Thế, ông cũng là tác giả công trình tượng đài Hai
Bà Trưng Công Viên Mê Linh Sài Gòn, đã bị phá sập sau biến cố 1963. (5)
PHAN NHẬT NAM VỀ LA VANG VỚI NGÔ THẾ VINH
Con
Đường Buồn Tênh / Street Without Joy, Dọc đường số 1, Đại Lộ Kinh Hoàng,
Con Sông Bến Hải, Cây Cầu Hiền Lương, ngược về quá khứ, qua hai cuộc chiến
tranh Việt Pháp, Quốc Cộng Nam Bắc, ngược dòng thời gian xuyên suốt con đường
lịch sử đầy xác chết, đẫm máu và nước mắt, bằng cách này hay cách khác, thế hệ
tuổi trẻ chúng tôi trong chiến tranh hay hòa bình cũng đã hơn một lần đi
qua và chẳng thể nào quên.
Và trong chuyến đi này, Phan Nhật Nam cũng đã đến La Vang với tôi
qua một hồi cảnh / flashback với
hồi chuông báo tử hay sám hối / For Whom The Bell Tolls, với lời ai
điếu hay cả lời nguyền… Những hồi chuông từ nơi tháp cổ mang đầy thương tích ấy
vẫn như còn ngân và vang xa, vươn xa tới 9 cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng để
xoa dịu vỗ về và là nguồn an ủi cho linh hồn của vô số những người dân lành đã
chết oan khiên trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972…
Ngày đầu tháng 7, 1972… Anh đang ở trên Quốc lộ 1 cây số 9 từ
Quảng Trị kế đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Giáp Hậu, quận Hải Lăng cảnh tượng
trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi
chảy máu tươi, mắt mờ nhạt. Không biết gì khi thân thể đang sụp xuống, co quắp,
luống cuống với cảnh tượng tàn khốc trước mặt. Trời ơi! Hình như có tiếng kêu
mơ hồ dội ngược trong ngực, sâu trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo giác
khi mất hết khả năng kiểm soát. Anh không là người đang sống, vì sống là sống
cùng với người sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Nhưng bây
giờ chung quanh, trước mặt chỉ còn một cảnh tượng, một vũng lầy – Chết. Chỉ Sự
chết bao trùm vây chặt, che kín, chụp xuống…
Sự
Chết trên 9 cây số đường này là 9 cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt
cát, chết trên đầu ngọn lá, chết vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương
sống, khúc xương sườn, chết lăn lóc đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong
đen đúa…
Làm
được gì bây giờ? Tại 9 cây số đường chết của Quảng Trị ở Việt Nam không thể
dùng danh từ “xác chết” nữa, vì nơi đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ
bùng… Chết quá cái chết. Không còn được là “người chết” trên đoạn đường kinh
khiếp của một chốn quê hương. Quảng Trị.
Đến
La Vang thượng, anh xuống xe đi bộ vào La Vang Chính Tòa, nơi đơn vị bạn, Tiểu
Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi
như người sống sót độc nhất sau trận bão lửa đã đốt cháy hết loài người. Đường
vắng, trời ủ giông, đất dưới chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không
khí thênh thang. Ngồi xuống vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một –
Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh?
Đi
vòng vòng ở sân Tiểu Vương Cung Thánh Đường, nhìn dãy tượng Thiên Thần gãy đổ,
tượng Đức Mẹ lỗ chỗ mảnh đạn, hàng dương liễu cháy xám… Bây giờ sau khi qua 9
cây số chết, lòng cứng, não trơ, anh đi xiêu vẹo ngả nghiêng trong bóng nắng và
gió nồng ẩm… Bước qua gạch ngói của căn nhà đổ nát, anh đến gác chuông kéo sợi
dây… Hai quả chuông quá nặng, phải kéo bằng hai tay… Kính… coong… Tiếng chuông
âm u vang động… Vang vào trong núi không nhỉ? Nơi đây là bình nguyên trùng điệp
và Trường Sơn bao vây nơi xa… Vắng vẻ quá! Anh nói thật lớn cho chính mình
nghe. Chẳng biết nên làm gì? Giật dây chuông thêm một lần nữa…
Kính… coong... coong... vang... La… Vang… Phan Nhật Nam [Tháng
7/1972 – 1/2019] (2)
Hình 2: trái, Tượng
Chúa Giêsu vác Thánh Giá, một trong quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm Mân Côi của
Lê Ngọc Huệ và môn sinh có Mai Chửng bị bom đạn phá sập trong Mùa Hè Đỏ Lửa
1972; phải: TT Nguyễn Văn Thiệu đang quỳ gối cầu nguyện trong Nhà thờ La Vang
đổ nát 20.09.1972 sau khi quân lực VNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. [nguồn: tư
liệu LM Nguyên Thanh]
ĐẾN VỚI NHÀ THỜ ĐỨC MẸ LA VANG
Từ
Huế ra đến Quảng Trị mấy ngày đầu năm 2019 là những ngày ủ dột mưa. Sau bài
viết: Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ở
Hải ngoại. VOA 07.06.2018, tôi có ước muốn trở lại thăm Nhà thờ
Đức Mẹ La Vang Quận Hải Lăng Quảng Trị, nơi đã từng có một quần thể tượng nghệ
thuật tôn giáo của Giáo sư điêu khắc Lê Ngọc Huệ cùng đám môn sinh trong đó có
Mai Chửng với chủ đề Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi. (3)
Đây
là một công trình tập thể của nhóm thầy trò trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, do
Giáo sư Lê Ngọc Huệ lúc đó còn rất trẻ, sinh năm 1936, tốt nghiệp điêu khắc từ
trường Mỹ thuật Montpellier, Pháp mới từ Paris về. Ông cùng với mấy sinh viên
khoa điêu khắc tuy ít nhưng tài ba và sau này họ trở thành những tên tuổi như
Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần Văn Danh… Thầy trò cùng chung sức thực hiện trong
khoảng thời gian hơn hai năm từ 1961 tới 1963 thì gần như hoàn tất.
Theo
Lê Tài Điển, hiện ở Pháp, là một thành viên duy nhất trong nhóm môn sinh của GS
Lê Ngọc Huệ mà tôi còn liên lạc được qua eMail [ngày 17.01.2019] cho biết: “Gs
Bernard Huệ có giòng máu Pháp Việt, quê ở Miền Tây, có một lần ông vắng mặt nhà
trường, sau đó ông cho biết về Hậu Giang để thăm mẹ. La Vang là công
trình lớn lao với 12 điêu khắc các thánh… không hoàn thành do biến động… dở
dang! Riêng tôi có phụ trách một dự án “non bộ” hiện giữa 12 tượng đài.” [ghi
chú của người viết: 15 tượng đài chứ không phải 12]
Tính
tới nay, khoảng thời gian 56 năm đâu đã quá xa, nhưng điều còn nhớ và ghi lại
được trên các văn bản thì rất khiêm tốn. Ngay như một tiểu sử chi tiết và các
hình ảnh của Lê Ngọc Huệ cũng rất khó kiếm, vì sau chính biến 1963 lật đổ TT
Ngô Đình Diệm, ông rời Việt Nam trở lại Pháp và không còn để lại đầu mối liên
lạc nào nữa.
Ngoài
quần thể tượng nghệ thuật tôn giáo Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm Mân Côi
tại Nhà thờ Đức Mẹ La Vang là một công trình lớn có giá trị cao trong lịch sử
điêu khắc Việt Nam thì Trụ Cột Hòa Bình là một tác
phẩm cá nhân duy nhất mà Lê Ngọc Huệ còn để lại. Trụ Cột Hòa Bình đoạt huy
chương Bạc trong cuộc triển lãm Quốc Tế Mỹ Thuật Sài Gòn lần thứ nhất năm
1962 [từ 26-10 đến 15-11-1962] tại Công Viên Tao Đàn gồm 22 quốc gia, là một
tác phẩm điêu khắc theo khuynh hướng hiện đại, rất mới so với nền điêu
khắc còn non trẻ của Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng rồi sau biến cố 30 tháng 4,
1975 các tác phẩm rất giá trị của Sài Gòn Cũ như Trụ Cột Hòa Bình của Lê
Ngọc Huệ nơi khuôn viên Viện Đại Học Sài Gòn, Bông Lúa Con Gái của Mai
Chửng ở thành phố Long Xuyên và một số các tượng đài khác đều chung số phận bị
hất hủi hay bị phá hủy… (1,4)
MỘT CHÚT LỊCH SỬ NHÀ THỜ LA VANG
Đức
Mẹ hiện ra ở La Vang 221 năm về trước (1798 – 2019), được coi như phép lạ trong
một thời kỳ mà đạo Thiên Chúa bắt đầu bị cấm đoán và bắt bớ tại Việt Nam. La
Vang ngày nay được xem như một thánh địa, nơi hành hương quan trọng của giáo
dân Việt Nam, ở xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo
phận Huế. Các tín đồ vẫn tin rằng, Đức Mẹ đã hiện ra ở khu vực này vào năm
1798, và một nhà thờ đã được xây dựng gần ba cây đa, nơi Đức Mẹ đã hiện ra và
đến năm 1961, nhà thờ Đức Mẹ La Vang được Tòa Thánh tôn phong là Tiểu Vương
Cung Thánh đường La Vang. [Ba Tiểu Vương Cung Thánh Đường khác của Việt Nam
là các nhà thờ: Sở Kiện Hà Nam, Phú Nhai Bùi Chu và Đức Bà Sài Gòn].
Dưới thời vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản, con trai thứ của
vua Quang Trung nhà Tây Sơn, ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1798; để tránh bị nạn,
nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất hẻo lánh này. Có nhiều “dật
sự” về nguồn gốc tên La Vang, nhưng có một cách giải thích khá khả tín là khi
giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc bấy giờ Đức Mẹ đã hiện ra
và chỉ dẫn cho họ đi tìm một loại lá từ cây vằng – uống vào sẽ chữa khỏi bệnh,
“lá vằng” viết không dấu thành La Vang. Sự kiện, người hành hương về nơi này có
thể mua được “lá vằng”, một loại lá dân gian dùng sắc thuốc uống mát và lành,
trị được một số bệnh. Khách thập phương đến đây hành hương và cầu xin ơn lành
mà người Thiên chúa giáo tin rằng Đức Mẹ sẽ ban ơn như ý nguyện. Đức Mẹ La Vang
được biểu tượng bằng một phụ nữ mặc áo dài bế con trong y phục truyền thống
Việt Nam.
Theo truyền khẩu, năm 1885 nhà thờ bị đốt và nhóm giáo dân La Vang
dựng lại nhà thờ Đức Mẹ trên nền cũ. Năm 1894, Giám mục Caspar Lộc cho xây lại
một đền thờ bằng ngói, vì là vùng núi vận chuyển vật liệu khó khăn nên 15 năm
mới hoàn thành. Năm 1901, đại hội La Vang đầu tiên được tổ chức vào ngày 08
tháng 08 để mừng khánh thành nhà thờ.
Năm
1924, do ngôi nhà thờ ngói chật hẹp, lại hư hại cho nên một đền thánh La Vang
theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier được dựng lên và khánh thành năm 1928,
nhân dịp Đại hội La Vang 9. Thánh đường này được trùng tu năm 1959. Trong phiên
họp ngày 13 tháng 04 năm 1961, Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam đã quyết định
La Vang là Trung tâm Thánh Mẫu Toàn quốc.
[https://vi.wikipedia.org/wiki/Đức_Mẹ_La_Vang]
Hình 3: trái, Nhà thờ
Đức Mẹ La Vang 30.05.1970 vẫn còn nguyên vẹn, Bác sĩ Nguyễn Duy Hảo YK68 cùng
LM Tuyên úy đưa anh em thương phế binh từ Tổng Y viện Duy Tân đi hành hương Nhà
thờ La Vang. [tư liệu Bs Nguyễn Duy Hảo]; phải: sau chiến tranh, chỉ còn lại di
tích tháp chuông cổ từ ngôi Thánh đường La Vang cũ. [nguồn: daminhvn.net]
Hình 4: trái, Nhà thờ
cổ Đức Mẹ La Vang trước chiến tranh còn nguyên vẹn; phải, Ngôi nhà thờ đổ nát
qua Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, sau đó quân lực VNCH tái chiếm Cổ thành Quảng Trị và
khu Nhà thờ La Vang. [tư liệu LM Nguyên Thanh]
Hình 5: trên, Nhà Thờ La Vang 1985,
tranh màu nước trên giấy dó 41cm x 51cm của Họa sĩ Dương Phước Luyến; dưới, Nhà
thờ La Vang 04.2017, photo by Dương Phước Luyến. [tư liệu Huỳnh Hữu Ủy]
Hình 6: Ngày 15 tháng
8 năm 2012 lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang
mới, với các góc mái
uốn cong như ngôi đình, mang phong cách kiến trúc Việt Nam.
Hình
7:
trên, Lễ đài rất lớn ngoài trời với bức tường phù điêu hình Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam; dưới, Tượng Đức Mẹ Maria ẵm xác Chúa Giêsu.
Theo
Linh Mục Nguyên Thanh, nguyên sĩ quan Tuyên úy của Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến VNCH, cũng là bạn tù cải tạo từ nhiều năm của người viết và
từng viếng La Vang nhiều lần ở các giai đoạn khác nhau thì:
“
… Trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Công trường Mân Côi bị bom đạn cày xới lỗ chỗ, một
số bức tượng trong quần thể 15 Sự Mầu Nhiệm bị tan nát hoặc sứt mẻ trầm trọng.
Chỉ còn ba cây đa nhân tạo nơi đài Đức Mẹ là vẫn đứng vững. [Hình 1,2]
Và
từ năm 1995, Công trường Mân Côi, đã được tái thiết từng bước theo nguyên trạng
ban đầu với sân cỏ, trồng cây, lối đi cũng là lộ trình kiệu được lát gạch chạy
thẳng từ cổng tam quan đến lễ đài, và điều đáng kể là 15 pho tượng Mầu Nhiệm
Mân Côi bị hư hại trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 cũng đã được tu sửa tái tạo.
Chủ
đề 15 pho tượng của điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ tương ứng với sự chiêm ngắm 15
Mầu Nhiệm Mân Côi gồm: Năm sự Vui, Năm sự Thương, và Năm sự Mừng. Chủ đề này
đặc biệt thích hợp cho thánh địa sùng bái Thánh Mẫu nếu so với chủ đề
thường thấy trong hầu hết khuôn viên của các nhà thờ là “14 Chặng đàng Thánh
giá”.
Mân
Côi / Rosary nghĩa là “vòng hoa hồng”, mỗi
lời kinh Kính mừng Ave Maria như một đóa hồng xinh đẹp sẽ kết thành một Tràng
Hoa dâng lên Đức Mẹ. Đọc kinh Kính mừng là sự chiêm nghiệm theo trình tự những
mầu nhiệm hay sự kiện chính trong cuộc đời, sự thương khó, cái chết, và vinh
quang của Chúa Giêsu và sự tham dự của Mẹ ngài là Maria.
Trong
kinh nguyện Mân Côi đọc mỗi ngày, 15 mầu nhiệm được chia thành 3 bộ, mỗi bộ
trong đó lại có 5 đề tài khác nhau để chiêm nghiệm (mỗi đề tài được đọc bằng
mười bài kinh Kính mừng). Để bổ sung vào những mầu nhiệm chiêm ngắm này, trong
đó người ta lại phối hợp chúng với các đức tính gương mẫu với từng mầu nhiệm
(như tính khiêm nhường, bác ái, nghèo khó, thanh sạch…). Dựa vào đó, mỗi “bộ”
về hình thể điêu khắc súc tích được cái ý tưởng cốt yếu của từng đề tài:
1.
Năm sự vui: Chiêm ngắm những khoảnh khắc trong đời Đức Mẹ Maria, đây là
những đề tài giàu cảm xúc và thân thiết, như trong cảnh thiên thần truyền tin
hoặc tình cảm giữa người nữ với nhau, việc sinh đẻ, tình mẹ con. Điêu khắc chủ yếu
dùng những bố cục và đường nét cong đầy nữ tính, hình khối tròn mềm mại hài hòa
khi vận dụng đường uốn lượn nhịp nhàng của cử động và y phục.
2.
Năm sự thương: loạt tượng này chủ yếu dùng những mẫu khối hình học lập
thể táo bạo và mãnh liệt thật thích hợp để diễn tả nỗi khắc khoải và thống khổ
vừa trong nội tâm và thể xác của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn, như cảnh cầu
nguyện trong vườn cây dầu, cảnh thụ hình và chịu đóng đinh.
3.
Năm sự mừng: là những đề tài hân hoan, thăng hoa và tôn vinh. Hình khối
điêu khắc từ đây ít tính khắc khổ, ngoại trừ pho “Chúa Giêsu sống lại” vẫn giữ
phong cách lập thể và biểu hiện để thống nhất với Năm Sự Thương, các pho còn
lại trở về với hình khối mang tính tượng trưng với đường nét tròn đầy của nữ
tính để diễn tả trạng thái viên mãn, nhất là với các bức thể hiện Đức Mẹ.
Tác
phẩm của Lê Ngọc Huệ để lại sẽ vẫn còn tỏa sáng lâu dài vì mang những giá trị
nghệ thuật và tâm linh thể nghiệm đạo đức Ki-tô giáo và mỹ học đương đại. Quần
thể tượng là 15 đóa hồng mầu nhiệm – rosa mystica –
chất chứa nhiều trạng thái cảm xúc từ bi tráng đến thăng hoa của con người vượt
cảnh giới thế tục qua sự cứu chuộc của tôn giáo và nghệ thuật, và nằm trong một
không gian và thời gian kết tinh của tâm linh qua những thăng trầm của lịch sử.
[nguồn: LM Nguyên Thanh]
Sau
thời gian gián đoạn, từ năm 1990, chính quyền địa phương cho phép hành lễ trở
lại. La Vang trở thành thánh địa quan trọng nhất của người Thiên Chúa giáo Việt
Nam, hàng năm có hơn nửa triệu người, cả từ khắp năm châu về hành hương, con số
ấy ngày một gia tăng.
TÁC GIẢ TƯỢNG BA CÂY ĐA LÀ AI?
Theo
Chủng sinh Nguyễn An Phong, trong Kỷ Yếu Kỷ niệm 42 năm Lớp Mẹ Vô nhiễm Khoá
Hoan Thiện / HT 67, viết theo lời kể của Ba anh, ông Nguyễn Văn Nghiêm,
người gần như suốt cuộc đời gắn bó với Nhà thờ Đức Mẹ La Vang thì:
“Được
nghe Ba tôi kể một vài điều, nhất là về việc xây cất Ba Cây Đa và các tượng
Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm. Theo như trang mạng
của Địa Phận Huế bây giờ, cũng như trong sách Đức Mẹ La
Vang của linh mục Hồng Phúc hoặc lời giải thích của thi sĩ Đình Bảng trong
DVD về La Vang đều nói là công trình của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, vị
kiến trúc sư lừng danh thế giới với giải Grand Prix de Rome năm 1955… Cậy
nhờ đến internet để tìm kiếm, có khá nhiều trang mạng nói về vị kiến
trúc sư tài ba nầy như ở trang bách khoa: http://en.wikipedia.org/wiki/Ngo_Viet_Thu
Đặc
biệt, trang mạng sau này của Kiến Trúc Sư Ngô Viết Nam Sơn
là con trai của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nói về cuộc đời nghệ thuật của Ba
mình. Trang nầy liệt kê các công trình tiêu biểu như khách sạn, chùa chiền, nhà
thờ, chợ búa, trường Đại Học, dinh Độc Lập… nhưng hoàn toàn không nhắc tới công
trình La Vang hoặc một công trình điêu khắc nào.
Tuy
nhiên, sau lưng bàn thờ Mẹ, nếu để ý, ta có thể thấy
khắc mấy hàng chữ nhỏ. Hàng chữ nầy khắc chìm vào đá, nhưng
có ai mới sơn màu đỏ lên:
Hân
hạnh phục vụ Linh Đài
Sáng kiến và mô hình: Ô. Nguyễn Văn Thế, điêu khắc sư
Quản lý: LM Trần Văn Tường
Công tác giám thị: Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Hữu Mùi
Tạc đá: Huỳnh Phạm
Vậy đúng
là ông Nguyễn Văn Thế mà tôi còn nhớ. Ông Nguyễn Văn Nghiêm là Ba
tôi. Ông Nguyễn Hữu Mùi là thân phụ của linh mục Nguyễn Hữu Hiến (Hoan Thiện
66)…. Nhưng đoan chắc Ba Cây Đa là của điêu khắc gia Nguyễn
Văn Thế, vì có khắc rõ ràng trên bảng đá.” [Hết
lược dẫn] (5)
Hình 8: Điêu khắc gia
Nguyễn Văn Thế, Đệ Nhị Giải La Mã [Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn
Phương, Nha Mỹ Thuật Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH 1962] (6)
Theo trang mạng tiếng Việt ://vi.wikipedia.org/wiki/Ngô_Viết_Thụ thì: “KTS
Ngô Viết Thụ có vai trò quy hoạch kiến trúc tổng thể khu Thánh địa La Vang
Quảng Trị cùng với công trình điêu khắc của “điêu khắc sư” Nguyễn Văn Thế, cũng
như ông đã từng quy hoạch cảnh quan Công trường Mê Linh năm 1961 cùng với nhà
điêu khắc Nguyễn Văn Thế là tác giả của tượng đài Hai Bà Trưng Sài Gòn.”
Với
sự thận trọng, người viết đã nhờ LM Nguyên Thanh [ngày 18.01.2019], liên lạc
với Cha nguyên quản nhiệm Tiểu Vương Cung Thánh Đường La Vang Quảng Trị thì
được Cha cho biết, qua các giai đoạn trùng tu kể cả tượng đài Ba Cây Đa, đã
không còn những dòng chữ khắc trên đá sau lưng bàn thờ Mẹ, và Cha thì vẫn nghĩ
rằng tượng Ba Cây Đa là của KTS Ngô Viết Thụ.
Người
viết chỉ ghi lại những sự kiện và không đưa ra một kết luận nào. Hy vọng trong
tương lai gần, sẽ có thêm một tiếng nói của KTS Ngô Viết Nam Sơn con trai KTS
Ngô Viết Thụ, để có thể giúp soi sáng một sự kiện có tính cách lịch sử mỹ thuật
tôn giáo này.
Hình 9: KTS Ngô Viết
Thụ, Khôi Nguyên Giải La Mã, được TT Ngô Đình Diệm mời về VN, ông đã để lại
nhiều dấu ấn trên các công trình kiến trúc thời Việt Nam Cộng Hòa. Hình trên:
Lễ đặt viên đá đầu tiên 1962 xây Trung tâm Giáo dục Y Khoa Sài Gòn; hàng trước
từ trái: GS Phạm Biểu Tâm, TT Ngô Đình Diệm, KTS Ngô Viết Thụ, GS Nguyễn Quang
Trình. [tư liệu gia đình GS Phạm Biểu Tâm]
ĐỨC TGM NGÔ ĐÌNH THỤC VÀ GS LÊ NGỌC HUỆ
Vẫn
theo Nguyễn An Phong, trong Kỷ Yếu Lớp Mẹ Vô nhiễm Khóa Hoan Thiện/ HT 67,
theo lời kể của Ba anh, ông Nguyễn Văn Nghiêm, một giai thoại thú vị về Đức
Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, [anh TT Ngô Đình Diệm] lúc đó đã 64 tuổi đang
cai quản Giáo phận Huế bao gồm cả Quảng Trị với Giáo sư Điêu khắc Cao Đẳng Mỹ
Thuật Huế Lê Ngọc Huệ còn rất trẻ, mới 25 tuổi từ Pháp về:
“Khi
vị điêu khắc gia trình Đức Tổng Giám Mục
Ngô Đình Thục mô hình các bức tượng Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm
thì ngài bác ngay. Ngài lấy lý do dân Quảng Trị là những
người mộc mạc, quê mùa. Mỗi khi đi viếng Mẹ, làm thế nào để họ có thể cầu
nguyện trước những bức tượng “một hòn, một cục” được. Người dân quê cần những
bức tượng theo lối tả chân để họ có thể hiểu mà để tâm cầu nguyện. Vị điêu khắc
gia đã mất một thời gian khá dài để thuyết phục Đức Tổng. Vì đây là một công
trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao. Những bức tượng lập khối có
những ý nghĩa nhất định… Tượng Mẹ Lên Trời, tà áo Mẹ phồng lên như có gió thổi
để chỉ Mẹ được nâng lên trời, cả hồn lẫn xác. Trong khi tượng Chúa Lên Trời thì
tự nhiên. Những bắp thịt trên vai của tượng Chúa Ngã Xuống Đất căng lên sức
nặng của tội lỗi con người, nhưng khuôn mặt Chúa thì vẫn bình thản, thương yêu…
Nghe lời giải thích hợp lý, Đức Tổng đồng ý với điều kiện là trước mỗi bức tượng,
ghi những chú giải cần thiết để người dân dễ hiểu. Vị điêu khắc gia từ chối
quyết liệt, vì như vậy còn gì là nghệ thuật nữa. Đức Tổng cuối cùng chịu thua,
chấp thuận. Tôi cũng nghe kể vị điêu khắc gia nầy là một giáo sư trường Mỹ
Thuật Huế, đã đem theo các môn sinh của mình để thực hiện công trình lớn lao
nầy… Và Mười Lăm Sự Mầu Nhiệm có thể là của điêu khắc gia Bernard Ngọc
Huệ và các môn sinh thuộc trường Mỹ Thuật Huế. [hết lược dẫn] (5)
Hình 10: Điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ, Huy
chương Bạc Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật 1962 [Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại,
Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Bộ Quốc Gia Giáo Dục VNCH 1962] (6)
Qua
sự kiện này, Huỳnh Hữu Ủy nhà phê bình Nghệ thuật Tạo
hình Việt Nam đã
phát biểu: “Tôi lấy làm lạ là một người như Cha Ngô Đình Thục, quen với bầu
không khí nghệ thuật cổ điển của Vatican mà lại chấp nhận được những pho tượng
trừu tượng biểu hiện ấy của Lê Ngọc Huệ. Âu cũng là một cái may lớn cho chúng
ta.”
QUẦN THỂ TƯỢNG MÂN CÔI TRONG SÂN NHÀ THỜ LA VANG
Như
đã nói ở trên, quần thể tượng này, được sáng tạo theo sử thi Thiên Chúa giáo
với 15 sự mầu nhiệm Mân Côi gồm: (a) 5 sự vui, (b) 5 sự thương, (c) 5 sự mừng.
Công trình bắt đầu từ 1961 đến 1963 thì được coi
như hoàn thành.
Theo
Trịnh Cung, điều còn nhớ được, thì nhóm tượng đã được tạo hình và làm khuôn tại
trường CĐMT Huế, đến giai đoạn 2, quần thể tượng này được đúc bằng chất liệu
granito tại sân nhà thờ La Vang, với xi măng trắng trộn đá nhỏ… Các pho tượng
được đặt hai bên con đường lát đá từ cổng tam quan đi vào Quảng trường Mân Côi,
con đường này dẫn đến một lễ đài rất lớn ngoài trời. Ngôi nhà thờ La Vang bị
tàn phá trong những trận giao tranh khốc liệt, nhất là trong giai đoạn Mùa Hè
Đỏ Lửa 1972 và nhóm quần thể tượng này đã không còn nguyên vẹn. [Hình 2,7]
Mãi
đến năm 1995, công trường Mân Côi và 15 pho tượng mầu nhiệm mới được phục hồi,
và nay cũng đã gần một phần tư thế kỷ, đã lại có thêm rêu phong nhuốm màu thời
gian. Đặc tính của những bức tượng này với những hình khối, có đường nét cách
tân nhưng rất đẹp, nhìn theo cả không gian ba chiều.
Dưới
đây là 12 những bức hình chụp vội dưới trời mưa chỉ với chiếc iPhone 8-plus
của chính người viết, có giá trị như những ghi chép. Ba bức hình thiếu, được bổ
sung bằng 2 hình của Nguyễn Quốc Thái [ Vui V, Mừng I ] và 1 hình của
Phanxi Pang [ Mừng III ], cả 3 hình có đánh dấu sao * / asterix.
Rồi
ra, mong có dịp trở lại nơi đây, trong những ngày nắng ráo, với đầy đủ ánh sáng
và một chiếc máy hình tốt để có thể có những bức ảnh đẹp, chụp lại được các góc
cạnh và ánh sáng sắc bén của mỗi pho tượng tương xứng với giá trị nghệ thuật
của mỗi tác phẩm điêu khắc này.
LÊ NGỌC HUỆ MỘT TÀI NĂNG LỚN
Lê
Ngọc Huệ khi từ Paris về Việt Nam 1961, lúc đó ông còn rất trẻ mới 25 tuổi, chỉ
hơn học trò của ông, Lê Tài Điển sinh năm 1937 một tuổi! Ông tốt nghiệp điêu khắc
ở Pháp, khi được mời về dạy trường CĐMT Huế, ông mang theo cả một làn gió mới
thổi vào lãnh vực điêu khắc của Việt Nam lúc đó còn non trẻ và cả rất bảo thủ.
Theo
Đinh Cường, trong bài viết về Lê Tài Điển đăng trên VOA, và có đăng trong Tuyển
tập “Những mảng rời Lê Tài Điển”, Nxb Biển Khơi ĐKSS, Paris 2012, thì
khi có Mai Lan Phương họa sĩ tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Trang trí ở Paris về
thay họa sĩ Tôn Thất Đào, làm giám đốc CĐMT Huế, “Mai Lan Phương có mời
người bạn là Lê Ngọc Huệ, tốt nghiệp điêu khắc Đại học Montpellier về dạy, Lê
Tài Điển cũng ra học điêu khắc với Lê Ngọc Huệ, một thầy dạy điêu khắc trẻ, đã
đem một luồng khí mới về cho trường, đã đào tạo được những điêu khắc gia tài ba
như Mai Chửng, Lê Thành Nhơn…” (3)
Tên
tuổi Gs Bernard Huệ lúc đó đã thu hút được một số sinh viên đang học điêu khắc
tại trường Quốc Gia CĐMT Gia Định ra Huế học như Mai Chửng, Lê Tài Điển, Trần
Văn Danh… Với quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm trên Quảng Trường Mân Côi Nhà
thờ Đức Mẹ La Vang, qua thử thách của thời gian, đã có được một đánh giá phổ
quát: Lê Ngọc Huệ trong lãnh vực điêu khắc là một tài năng lớn với thủ pháp
tinh tế, đường nét tinh giản nhưng mạnh mẽ, đầy tính tượng trưng và sáng tạo.
Chỉ với khoảng thời gian ngắn chưa đầy 3 năm ở Việt Nam, ông đã để lại một công
trình nghệ thuật tôn giáo quan trọng và lớn lao, ghi những dấu ấn sâu đậm trong
ngành điêu khắc Việt Nam, tạo được sự kết hợp thăng hoa giữa nghệ thuật và tôn
giáo.
Quần
thể tượng của Lê Ngọc Huệ và môn sinh cũng đã phải thăng trầm với lịch sử, với
vận nước và tồn tại cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn rất mới, rất cách
tân mà vẫn rất gần gũi với quần chúng, với tín đồ chiêm ngắm khi hành hương tới
vùng đất Thánh La Vang.
Tác
giả gửi bài viết này tới các bạn trẻ trong và ngoài nước có quan tâm tới Lịch
sử Mỹ Thuật Việt Nam, như gợi ý cho một nghiên cứu, có thể là đề tài hấp dẫn
cho một luận án tiến sĩ về Quần thể tượng 15 Sự Mầu Nhiệm Mân Côi, một
công trình nghệ thuật tạo hình lớn của nhà điêu khắc tài năng Lê Ngọc Huệ,
trước khi các dữ kiện bị phủ mờ bởi lớp bụi thời gian và đi dần vào quên lãng.
NGÔ THẾ VINH
Nhà thờ Đức Mẹ La Vang,
Hải Lăng Quảng Trị 01.2019
Tham Khảo:
1/ Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ờ Hải ngoại. Ngô Thế Vinh, VOA 07.06.2018
NGÔ THẾ VINH
Nhà thờ Đức Mẹ La Vang,
Hải Lăng Quảng Trị 01.2019
Tham Khảo:
1/ Đi tìm bức tượng Mẹ và Con, tác phẩm bị lãng quên của Mai Chửng ờ Hải ngoại. Ngô Thế Vinh, VOA 07.06.2018
2/
Mùa Hè Đỏ Lửa. Phan Nhật Nam, Nxb Sáng Tạo Sài Gòn 1972. Phan Nhật Nam về La
Vang với Ngô Thế Vinh, tư liệu cá nhân 07.1968 – 01.2019
3/
Nghệ sĩ tạo hình nhiều trải nghiệm. Đinh Cường, Tuyển tập Những mảng rời Lê Tài
Điển, Nxb Biển Khơi ĐKSS, Paris Normandie 2012
4/
Mỹ Thuật Việt Nam, Những Vấn đề Xoay quanh. Trụ Cột Hoà bình, Tác phẩm điêu
khắc giá trị bị hắt hủi [tr 106-108]. Trịnh Cung, C. Xuất bản 2010
5/
Nhớ nhớ… Quên quên… Nguyễn An Phong, Kỷ Yếu Lớp Mẹ Vô nhiễm HT/ Hoan Thiện 67.
Website Cựu Chủng sinh Huế 2010 http://www.cuucshuehn.net/ht67/pages/nhonhoquenquen.htm
6/
Nghệ Thuật Việt Nam Hiện Đại, Nguyễn Văn Phương, Nha Mỹ Thuật Học Vụ Bộ Quốc
Gia Giáo Dục VNCH 1962
[Ghi
chú: hình tư liệu có ghi nguồn, tất cả hình ảnh còn lại là của người viết]