T. V Ấ N
Nhà thơ Thành Tôn
và những cuốn sách thủ công
THÀNH TÔN
(Ảnh Lưu Na - California, 2012)
1.
Thế là tôi lại có mặt tại quận Cam
của Cali vào một ngày tháng 5, với vài cuộc vui xum họp gia đình và bạn hữu
từ mái quân trường xưa ở một thành phố miền cao nguyên Việt Nam. Tất nhiên,
tôi đã không bỏ lỡ cơ hội gặp mặt những bằng hữu thân quen của trang mạng
TV&BH. Buổi gặp gỡ được hẹn tại một quán cà phê. LN bảo sẽ có mặt tác giả
“Thắp Tình”(1969), nhà thơ Thành Tôn.
Vợ chồng tôi đến hơi sớm, loay hoay tìm một nơi vừa đủ ngồi cho nhiều người, vừa tránh những cơn gió khó chịu của tháng 5 Cali. Ở một góc quán, có một vị quá trung niên (thượng niên chăng?), ăn mặc rất nghiêm chỉnh, áo sơ mi dài tay cài nút gọn ghẽ, mặt vuông chữ điền, mắt sáng tia ấm áp, chiếu những ánh dò hỏi về phía vợ chồng tôi. Có lẽ chúng tôi quen nhau đâu đó trong khoảng thời gian mấy chục năm đoạn trường vừa qua chăng? Bạn học? bạn lính? bạn tù? Tôi cố moi trong trí nhớ ánh mắt ấm áp đó. Nhưng chịu. Tên mình và ngày tháng năm sinh đôi khi còn phải ngừng lại vài giây suy nghĩ trước khi trả lời người đối diện thì làm sao nhớ được một ánh mắt của nhiều năm trước, nhiều kiếp trước. Khi người bạn trẻ LN, nhà thơ Nguyễn Đình Toàn và chị Hồng Ngọc xuất hiện trước cửa quán thì tôi thấy vị trung (thượng) niên mặt vuông chữ điền đứng dậy bắt tay chào hỏi. Tôi đoán hẳn phải là trung (thượng) niên thi sĩ Thành Tôn mà LN đã nói trước. Quả đúng thế. Tác giả “Thắp tình”, bằng cái giọng Quảng Nam sang sảng, vừa cười vừa đáp lại lời giới thiệu của người bạn trẻ LN rằng ông đã nhận ra tôi từ lúc vợ chồng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi. Chỉ có điều ông tế nhị không nói ra là nhìn cái điệu bộ lúng ta lúng túng và khép nép ngờ nghệch kiểu “Tư Ếch đi Xè Gòong” kia thì ai chẳng biết đó là gã nhà quê xứ khỉ ho cò gáy vừa lên tỉnh như thông báo của LN.
2.
Thành Tôn là một cái tên không hẳn là
xa lạ với những người đọc các tạp chí Bách Khoa, Văn Học, Văn, Hành Trình…
của văn học miền Nam trước 1975. Tập thơ “Thắp Tình” của ông xuất bản tháng 8
năm 1969, mà theo một người bạn của ông kể lại, “là một tập thơ rất đặc biệt
trong công việc ấn loát. Tác giả của nó đã bỏ tâm huyết và công sức một cách
trọn vẹn vào các khâu: trình bày bìa, sắp chữ, đạp máy in, đóng, cắt và phát
hành. Công việt thật nhiêu khê, tỉ mỉ như vậy, tôi tin chắc chưa có một nhà
thơ Việt Nam nào đủ chân tình và khả năng để thực hiện…” (Thắp Tình Thành
Tôn – Hà Khánh Quân).
Như những người cùng trang lứa, sau
tháng tư năm 1975, Thành Tôn cũng đã mất gần tám năm tuổi trẻ trong các trại
cải tạo. Cùng với gia đình, ông định cư tại Mỹ từ năm 1996, nhưng không còn
thấy thơ (văn) mang tên Thành Tôn xuất hiện trên các tạp chí văn học hải
ngoại, dù là báo in hay báo mạng. Về chi tiết này, nhà văn Trần Yên Hòa, một
người cùng quê với ông đã viết : “Thành Tôn dạo sau này không làm thơ nữa.
Anh vẫn nói: “Làm thơ như vậy đủ rồi. Bây giờ mình thấy làm thơ không hay,
thôi không làm thơ nữa”. Tôi biết Thành Tôn muốn người đọc hãy đọc những bài
thơ của anh ngày cũ trong Thắp Tình, để thấy một vóc dáng thơ Thành Tôn. Như
người đàn bà đẹp chỉ muốn người ta nhìn ngắm nhan sắc mình khi còn tuổi xuân
thì phơi phới…” (Thành Tôn: Một thời làm thơ, một đời mê sách-Trần
Yên Hòa).
Với riêng tôi, tập thơ “Thắp Tình”
của Thành Tôn ra đời năm tôi chưa biết vị đắng, vị ngọt của yêu đương, của nụ
hôn đầu đời như thế nào, nên cũng không có dịp đọc tập thơ. Mặt khác, thuở
ấy, cái tên Thành Tôn cũng chỉ thoáng ẩn thoáng hiện qua những bài thơ đăng
rải rác trên các tạp chí văn học Sài Gòn mà tôi đọc nhưng dấu ấn của chúng
không ở lại lâu. Có lẽ lúc ấy, con ma chiến tranh lớn quá, khủng khiếp quá,
nên nó đã chi phối trọn vẹn đời sống – cả tinh thần lẫn vật chất – của thế hệ
chúng tôi vừa mới chân ướt chân ráo bước vào đời, nên tâm trí đâu dành cho
những con chữ vốn bị người đời coi như “sách vở ích gì cho buổi ấy“.
Ngày ấy, không ai trong chúng tôi
nghĩ mình sẽ sống sót qua cuộc chiến tranh, cũng không hề có trong đầu viễn
tượng mình sẽ phải sống qua một thời tù đày, rồi bỏ xứ ra đi sống trên mảnh
đất xa lạ như hôm nay.
Nói gì đến thơ, đến chữ, đến sách,
đến vở…
3.
Giờ đây, ngồi trước mặt Thành Tôn,
trong trí tôi không có một chút vốn liếng thơ văn nào của ông để mở đầu câu
chuyện làm quà, ngoài tên tập thơ còn nhớ được đã là may mắn lắm rồi. Không
đồng hương đồng khói. Không đồng học đồng tù. Nhưng tôi đã không phải bận tâm
lâu hơn khoảng thời gian vừa đủ để nhấp một ngụm cà phê của buổi trưa Cali
hanh gió.
Cái giọng Quảng Nam sang sảng, cởi
mở, vào chuyện tự nhiên như thể đây không phải là lần thứ nhất chúng tôi ngồi
bên nhau chuyện trò. Và từ đôi mắt chiếu những tia ấm áp, chân tình kia, tôi
đánh mất ngay cảm giác nhà quê lên tỉnh của anh chàng Tư Ếch tội nghiệp.
Chưa hết. Bằng một vẻ trịnh trọng như
chính vẻ ngoài nghiêm túc trịnh trọng của nhà thơ, Thành Tôn mở túi xách bên
cạnh ông, lấy ra quyển sách nhỏ, mỏng, mang hình dáng một tập thơ. Ông đưa
cho tôi và bảo đây là món quà tri ngộ tặng người mới quen. Rồi ông thao thao
bất tuyệt nói về sự mù tịt kỹ thuật máy tính của mình nhưng lại khéo tay khéo
chân trong việc tái tạo những quyển sách có số tuổi già hằng nửa thế kỷ. Như
tập thơ ông vừa tặng tôi. Nó ra đời năm 1962 tại Sài Gòn. Ban đầu tôi tưởng
đây là một bản sao tập thơ “Thắp Tình” của Thành Tôn. Nhưng lại là bản sao
tập thơ “Mật Đắng” của nhà thơ Nguyễn Đình Toàn đang ngồi tủm tỉm cười bên
kia bàn. Bản chính lần thứ nhất xuất bản năm 1962 của tập thơ , Thành Tôn mua
lại được trong những lần lục lọi chồng sách cũ của Sài Gòn sau khi được tha
về từ trại cải tạo. Ông đã tìm mọi cách mang tập thơ qua Mỹ khi lên đường đi
định cư, và trân trọng trao lại cho tác giả để “châu về hiệp phố”. Quả là cử
chỉ nghĩa hiệp của một người yêu chữ, yêu sách. Tập thơ Mật Đắng của nhà thơ
Nguyễn Đình Toàn không phải là trường hợp đầu tiên của châu về hiệp phố
mà Thành Tôn đã thực hiện.
Theo nhà thơ Trần Yên Hòa : “Có
thể nói anh là một người có đầy đủ sách nhất. Điều này tôi chỉ biết qua nhận
xét của tôi thôi. Anh mua đủ loại sách, dù có những quyển sách anh không
thích nhưng anh vẫn mua về để làm tài liệu. Những sách cũ của các tác giả
xuất bản ở VN truớc 1975, qua cuộc đổi đời 75, khi ra đi không mang theo
đuợc. Thế mà hỏi Thành Tôn, anh lại có, như những tập thơ của Du Tử Lê chẳng
hạn. Khi Du Tử Lê in toàn tập thơ Du Tử Lê, Thành Tôn đã cung cấp cho Du Tử
Lê những tập thơ cũ mà Du Tử Lê không còn. Hay bây giờ, nếu một bạn văn nào
đó cần tài liệu cũ, Thành Tôn đều có và cho mượn ngay. Đến nhà anh, anh cho
xem những tác phẩm của các nhà xuất bản An Tiêm, Ca Dao, Lá Bối… mà anh đã
đem theo và còn cất giữ, mới thấy được hết tấm lòng của Thành Tôn đối với chữ
nghĩa, sách vở. Anh kể, khi anh đi Mỹ, quan trọng nhất là 2 thùng sách anh
mang theo, sau đó mới là những vật dụng cá nhân cho gia đình.
… Nhà thơ Thành Tôn còn cho thấy, ông
luôn sẵn sàng chia sẻ, cho đi, những gì ông có. Dù đó là những cuốn sách mà
ông sưu tầm, nâng niu, như những đứa con quý báu nhất của ông” (Thành Tôn: Một thời làm thơ, một
đời mê sách – Trần Yên Hòa).
Cầm tập thơ phó bản “Mật Đắng” của
nhà thơ Nguyễn Đình Toàn trên tay, lần giở từng trang và đọc lại những bài
thơ kỷ niệm của một thời, tôi thấy vị Trung (thượng) niên thi sĩ ngồi bên
cạnh tôi quả thực thật đáng yêu vì những gì ông đã làm. Với tôi, đây là bài
thơ đầy ý nghĩa của một người yêu sách yêu chữ hết lòng hết sức, chỉ biết cho
đi làm niềm vui lúc nào cũng lấp lánh trong đôi mắt đầy những tia nắng ấm áp
kia.
Vậy thì Thành Tôn đâu cần phải tiếp
tục làm thơ mới được người đời … tiếp tục gọi là thi sĩ.
Hơn nửa thế kỷ trước, nhà thơ đã tự
mình “trình bày bìa, sắp chữ, đạp máy in, đóng, cắt và phát hành” cho
tập thơ đầu đời của mình. Nay, bất chấp thế giới kỹ thuật đang chi phối mọi
lãnh vực đời sống ngoài kia, nhà thơ của chúng ta vẫn miệt mài với chụp, cắt,
dán, đóng những trang sách cũ bằng đôi tay khéo léo của mình. Chỉ để mang
niềm vui đến cho anh em bằng hữu thân sơ.
Chẳng phải đó cũng là ước muốn của
thi nhân khi chau chuốt từng vần thơ gởi đến cho đời hay sao?
T.Vấn
Nguồn: Thư Viện Sáng Tạo |