“Kìa
xem mọi thứ đều thay đổi
Còn
lại nhân gian một chút tình”
Hôm
nọ, sẵn dịp sọan từ 8 tủ sách trong nhà để lựa ra một số dự định sẽ tặng lại
cho thư viện của Viện Việt Học hay thư viện của Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt
(VHM our pride), tôi tình cờ nhìn thấy cuốn CHỚP BIỂN, Thơ Bùi Giáng, gia đình
ông đã in vào năm 1996 để kỷ niệm 70 năm sinh của tác giả này và do anh Bùi Vịnh
tặng cho tôi. Ngay ở trang mở đầu đã đề:
“Em
đi từ tỉnh mộng đầu
Một
mình anh ở mang sầu trăm năm”
Hai
câu thơ này của Bùi Giáng chợt khiến tôi liên tưởng nhớ ra quãng đời mà ông đưa
vợ con vào sống ở vùng núi đồi hẻo lánh Trung Phước (Quảng Nam), rồi vợ con của
ông mất tại đấy và ông đã bỏ về xuôi[1] … Tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng một
nỗi bi thiết bung ra lan tràn và trùm lấp không gian, khiến tôi cảm thấy khó thở,
tôi tần ngần bỏ tập thơ xuống, không còn muốn đọc tiếp nữa ...
Nhưng
cũng ngay sau đó, lẩn thẩn thế nào tôi lại tình cờ thấy tập thơ HÁN TỰ HÀI
CÚ[2] được xếp sẵn cạnh đấy trong tủ sách. Mở ra, tôi mới từ từ nhớ lại rằng tập
thơ này có một quá trình thực hiện khá là ly kỳ: Ban đầu Hán Tự Hài Cú do ba
nhân vật viết chung là Bùi Giáng - Trịnh Công Sơn và Ngô Văn Tao, được xuất bản
vào năm 1994. Sau đấy bốn năm, Bùi Giáng mất (1926 – 7.10.1998); và rồi Trịnh
Công Sơn cũng rời khỏi cõi đời (28. 2. 1939 - 1.4. 2001), còn Ngô Văn Tao côi
cút một mình ở lại, ông liền cho in lại lần nữa cuốn này vào giữa năm 2001, để
“duy trì một nguồn thơ và tiếc thương tình bạn”, Ngô Văn Tao viết vậy.
Tôi
có được cuốn này là do ông Ngô Văn Tao tặng, đề mùng 6 tháng 1 năm 2004. Hồi ấy,
cách đây trên 14 năm, tôi không đồng ý lắm ở cái tựa đề Hán Tự Hài Cú [3]. Tuy
nhiên khi đọc vào sâu thì tâm tư tôi lại miên man cảm nhận đến từng suy tư lẫn
tư tưởng của ba tác giả này. Tự nhiên tôi thấy xúc động ở cái mối thâm tình mà
ba người bạn này đã thể hiện qua thơ văn trao đổi qua lại giữa họ. Rồi sẵn hứng,
tôi đã liền viết ra một số câu thơ chêm vào đấy. Bởi lúc ấy tôi nghĩ, đây là một
cách thế nhằm chia xẻ mấy lời lẽ chung vui cùng những nhân vật mà tôi đã từng
được quen biết, dù mỗi cá nhân một cách thế sống khác hẳn nhau nhưng đã cùng trải
qua một thời gian gặp gỡ nhau tại Miền Nam Việt Nam trước Bẩy Lăm …
Bằng
hữu hiện diện trong đời sống.
Cuốn
Hán Tự Hài Cú này độc đáo ở chỗ là một tập thơ chung của ba người, khiến tâm
tình tôi bung mở ra một không khí sống động vốn đã từng bao trùm rất nhiều những
dấu chỉ về tình bằng hữu trong thơ văn và đời sống của lịch sử con người. Tôi
chỉ xin liệt kê ra đây bốn dấu mốc đáng kể mà tôi còn nhớ được:
Đầu
tiên là Khổng Tử ( 551- 478 trước Tây Lịch) có nói: “Học hỏi mà thường xuyên thực
tập trong đời sống hằng ngày, há chẳng vui thích trong lòng sao? Bạn hữu từ
phương xa đến chơi, há chẳng vui vầy hào hứng lắm sao?..” [4]
Cái
thâm tình bằng hữu ấy khi chuyển sang đến nhân vật Lý Bạch (701-762) thì quả là
đã trở thành một trong vài tố chất cấu tạo thành con người của nhà thơ độc đáo
này: Từ bài Nguyệt Hạ Độc Chước( Dưới trăng chuốc rượu một mình), ông nhân cách
hóa vầng trăng thành bạn mình, tới giai thọai đang say rượu ông nhìn thấy ánh
trăng lung linh trên mặt nước mà tưởng rằng đấy là người bằng xương bằng thịt
nên ông nhẩy xuống ôm lấy vầng trăng, khiến phải chết chìm... Tuy nhiên đến bài
Ức Đông Sơn, Lý Bạch mô tả rằng Đông Sơn là quê nhà của nhà thơ, ông đã rời nơi
ấy lên kinh đô trên đường lăn lộn tiến thân, kiếm tìm danh lợi, ông đã trôi nổi
giữa chốn phồn hoa, vui vầy với không biết bao nhiêu bạn hữu đủ mọi hạng ngừơi,
để rồi đến một hôm bắt đầu hả cơn mê đắm lợi danh, ông chợt nhớ về miền quê cũ
kia mà man mác tự vấn lòng mình, chua xót nhớ đến cảnh cũ người xưa mà tự hỏi về
cội hoa tường vi, vầng mây trắng lẫn mảnh trăng sáng thuở ấy bây giờ có còn như
ngày trước hay chăng:
“ Bất
hướng Đông Sơn cửu
Từơng vi kỷ độ hoa
Bạch vân hòan tự tán
Minh nguyệt lạc thùy gia?”
“
Lâu rồi chẳng lại Đông Sơn
Tường
vi nọ mấy lần đơm hoa rồi?
Mây
trắng vẫn tạn mạn trôi?
Và vầng
trăng tỏ rụng rơi nhà nào?”
Sang
đến Việt Nam ta, riềng mối bằng hữu với văn chương cũng thâm thúy như vậy,
nhưng ít đi cách thức phải nhân cách hóa thiên nhiên-vũ trụ-vạn vật mà đậm chất
nhân bản, thâm tình của người với người hơn.Có thể nói rằng tình bằng hữu trong
văn chương Việt Nam đặc sắc ở chỗ giao tình thâm trọng trong đời sống hơn bất cứ
một văn thơ của dân tộc nào khác.
Chẳng
thế mà một Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (19.05.1889 – 07.06.1939), chỉ riêng nhà thơ này thôi là đã thể hiện khá độc đáo đối
với bằng hữu của ông: Từ các giai thọai như ông quí bạn đến độ “ngông”, ông đã
ngang nhiên trồng luôn cây húng ngay bên cạnh bàn nhậu cho tiện bè bạn dùng làm
gia vị để cùng ăn uống vui vầy với nhau! Rồi theo ông tuyển chọn, 4 điều kiện
ăn ngon thì bạn hữu cùng ngồi ăn với nhau là điều thứ nhì, chỉ sau điều kiện
chính là thức ăn ngon mà thôi!...Đến ngay trong những tác phẩm nổi danh, ông đã
có hẳn một bài “ Thư gửi người tình không quen biết”[5], mở đầu bằng bốn câu
theo thể thơ 7 chữ (thất ngôn):
“Ngồi
buồn lấy giấy viết thư chơi
Viết
bức thư này gửi đến ai
Non
nước xa khơi tình bỡ ngỡ
Ai
tri âm đó? nhận mà coi …”
Theo
trí nhớ của cá nhân tôi thì trong lịch sử văn chương của thế giới chưa chắc đã
có được bao nhiêu tác giả viết ra mấy bài thơ có nội dung như vậy!
Xa
hơn nữa trong văn học sử Việt Nam, Nguyễn Du( 03.01.1765 - 16.09. 1820) kia, nổi
danh bậc nhất là tác phẩm Truyện Kiều. Thế mà đến nay người ta đã tìm thấy được
cả tới năm sáu nguyên bản tác phẩm này khác nhau bằng chữ Nôm. Sự kiện này còn
đang được sôi nổi thảo luận, nhưng điểm cốt lõi mà ai ai trong chúng ta đều
công nhận sự thật này chứng tỏ rằng Nguyễn Du bao giờ cũng vẫn là tác giả chính
của tác phẩm Truyện Kiều, nhưng bên cạnh đấy đương nhiên không thể phủ nhận được
là đã có những đóng góp tích cực nhằm hòan thiện tác phẩm ấy theo truyền thống
“văn dĩ tải đạo”của cả một nhóm bằng hữu văn chương cùng thời với ông, trong ấy
ắt phải kể luôn cả những người đã chính tay khắc bản văn lưu trữ lại nữa chứ!...
Mới
đây nhất,: Đinh Cường( họa sĩ, 1939 - 2016)), Nguyễn Tường Giang (nhà thơ),
Nguyễn Mạnh Hùng(dịch giả) và Đinh Trường Chinh(họa sĩ), họ cùng hiện diện cạnh
nhau với những tác phẩm tiêu biểu cùng in trong một cuốn sách có tên là Truyện
Tình, Người Việt Books xuất bản đầu năm 2018. Truyện Tình đã biến thành một cái
cớ để bạn hữu vui thú với nhau được cụ thể hóa thành tác phẩm lưu lại đây cho
chúng ta được thưởng thức.
Riêng
tuyển tập có tên là “Những Mảng Rời Lê Tài Điển”, được nhà xuất bản Biển Khơi
(Pháp) in và phát hành từ tháng Bẩy năm 2012 nhưng nhờ có duyên mà chỉ đến tay
tôi vào 30 tháng Chín – 2018, tuyển tập này theo tôi mới là bằng chứng thật là
tiêu biểu cho tình bằng hữu độc đáo của giới văn nghệ Việt: Nội dung cuốn này
không những gồm một số bản chụp các tác phẩm điêu khắc và tranh ở thời điểm
trên dưới nửa thế kỷ của Lê Tài Điển mà còn hiện diện những bài của 18 tác giả
viết về ông; và hơn nữa, tuyển tập này cũng do ông cùng tất cả đến 33 bằng hữu
( nghĩa là cộng thêm15 cá nhân khác nữa đã tích cực đóng góp tinh thần, kỹ thuật
và tài chánh) hoàn tất việc thực hiện in ấn – xuất bản. “…Món quà này là chân
dung một người bạn, cũng là chân dung của tình bạn, của cuộc đời chúng tôi.
Chúng tôi mong muốn chia sẻ chân dung ấy với các bạn khác và độc giả cùng thời
cũng như của tương lai…”[6]
Vui vầy thế sự
Do đấy,
tôi chủ động tạm cho in ra đây 11 đọan thơ, mỗi đọan gồm ba phần, phần đầu vốn
của Ngô Văn Tao, phần thứ nhì là thơ đối ứng của Bùi Giáng hay của Trịnh Công
Sơn. Tất cả được trích từ cuốn “Hán tự hài cú” kể trên; và cuối cùng là mấy lời
ngẫu hứng của cá nhân tôi( in chữ nghiêng) góp thêm vào:
1.
Khứ
tình, nhân ly biệt
Nguyệt
trung hàn quá hệ thu phong
Hồi
cố mang mang lệ.
Trăng
xanh lạnh buốt nơi này
tình
tan giọt lệ bồi hồi chia tay
Trịnh
Công Sơn(trang 151)
Tình
xa, người đã xa người
lệ
ai vẫn buốt lạnh ngời trăng thu.
2.
Phong
lạc Hương giang tự
Vi
ba lô tước khiếu Xuân Thu
Hưng
vong sầu tế vũ.
Chim
kêu lạnh bến sông dài
Mưa
thưa nhỏ lệ đền đài thịnh suy.
Trịnh
Công Sơn(tr. 152)
Gió
nào lạc bến Hương giang
mưa
sầu như khóc hưng vong thuở nào.
3.
Tiêu,
Tương song bỉ ngạn
Ngư
phù xích tố ký mai hoa
Kỷ
thời tư hận thế.
Cá về
gửi gấm mùa xuân
Lòng
riêng hoạn nạn ngàn năm nỗi buồn.
Bùi
Giáng(tr. 149)
Ngàn
năm chia cách đôi bờ
riêng
hoa mai nở chẳng ngờ hận xưa.
4.
Khai
hoa ca yến lạc
trầm
tư vọng tưởng vị lai thời
Hoa
tàn yến phi lệ.
Chim
vui hót, bỗng dưng sầu
Hoa
kia thắm nụ thoáng mầu tàn phai.
Ngày
mai vọng tưởng làm chi
Sẽ
tàn sẽ mất còn gì nữa đâu.
Trịnh
Công Sơn(tr. 14)
Giữa
tiệc oanh mừng hoa nở.
Nghĩ
lúc hoa tàn, lệ ứa đẫm khăn.
5.
Lộ
biên hoa vị khai
Thiên
thu nhất niệm vi hàm tiếu
Tiểu
nữ tự nhiên nhiên
Bên
đường hoa nở chưa ra
Ngàn
năm chỉ một sát na vì người
Hoàng
mao gái nhỏ nụ cười
Thiên
nhiên hàm tiếu vì người vì ta.
Bùi
Giáng.(tr. 13)
Bên
đường hoa chưa vội nở
như
ngàn năm nàng chưa mở nụ cười
Tự
nhiên hoa cũng như người.
6.
Thiên
biên cô phi hạc
Ðái
tự thiên thu thế hận thường
Kim
dực mãn nguyệt quang.
Bên
trời hạc lẻ loi bay
Thiên
thu hận ấy mờ phai cõi người
Cánh
vàng nặng ánh trăng soi.
Trịnh
Công Sơn.(trang 10)
a/
Bên
trời hạc lẻ đường bay
Ngàn
năm cánh hận vàng đầy ánh trăng.
b/
Bóng
Mênh
mang cánh hạc bên trời
ngàn
năm sân hận chỉ ngời cõi không
cánh
vàng rực ánh trăng xuông.
7.
Mỹ
Quan Nhân sinh ý
Trầm
tư tịch mạc quán từ bi
Vọng
tầm tam cú kệ.
Từ
bi tịch mạc trầm tư
Vọng
tầm câu kệ quán từ nhân sinh.
Bùi
Giáng.(tr. 09)
a/
Ðời
người từng trải từ bi.
Tầm
chương trích cú chẳng bì an nhiên.
b/
Trầm
tư khơi lóng tâm trong
còn
lo kinh kệ truy tầm làm chi
đời
người đắc ý đúng thì.
8.
Ðồng
tuyến vô tâm điểm
Khứ
thời kim nhật dữ vị lai
Vô
thủy lưu vong nghiệp.
Còn,
không, vấn nạn nỗi buồn
Nỗi
xưa, sau, cũng bàng hoàng lưu vong.
Trịnh
Công Sơn.(tr. 11)
An
nhiên sống suốt một đời
lòng
trong sau trước trọn soi nghiệp phiền.
9.
Thanh
lâu ngã kim giả
Ðương
nhiên túy tận vong thời thế
Lai
hồi ngã tự vong.
Có
ta rồi sẽ quên ta
Ruợu
lầu xanh uống bỗng xa chuyện đời.
Trịnh
Công Sơn.(tr. 15)
Một
lần chuốc ruợu lầu xanh
say
quên thế sự, quên mình quên ta.
10.
Viên
biên hoang lộ đích
Khứ
niên lạc diệp ẩn tàng tích
Mai
táng cựu nhân tình.
Chôn
vùi một mối tình xưa
Lá
im lìm ngủ vườn thưa dấu người.
Trịnh
Công Sơn.(tr. 17)
Lá
rơi năm ngoái mất tăm
vùi
luôn tình cũ, khôn tầm người xưa.
11.
Thương
hải tang điền thế sự du
Phong
lưu nhất mộng hầu
Thăng
trầm bạc nhân ảo.
Biển
dâu thế sự du du
phong
lưu đợi mộng về ru tâm tình
Thăng
trầm biến ảo phù sinh.
Bùi
Giáng.(tr. 135)
Bể
dâu biến cải sự đời.
Sống
còn phong thái là đây
mang
mang dấu ấn, trước nay chẳng mờ.
Giao
tình bằng hữu là sắc tươi của xuân
Ở
đây sở dĩ tôi cho in thêm vào mấy phóng bút của riêng tôi, chỉ với mục đích là
để nhân dịp xuân về, đánh dấu một sự kiện vui vầy thế sự cùng bằng hữu.
Vốn
dĩ tôi cùng Bùi Giáng lẫn Trịnh Công Sơn trước Tháng Tư-1975 đã từng sống bên
nhau tại Miền Nam Việt Nam, chúng tôi thường có dịp “bù khú”, giao tình văn nghệ
với nhau. Nhưng sau đó, vì biến động của lịch sử nước nhà nên ba chúng tôi đã “
trôi giạt” mỗi người theo một phần số riêng, mỗi cá nhân chúng tôi đã phải bó
buộc sống còn theo một cách thế riêng, khác biệt hẳn nhau, đôi khi khác biệt đến
độ đối chọi lẫn nhau! Nhưng, dù thế nào đi nữa, còn sống sót hoặc đã kẻ ở người
đi, thì ít nhất chúng tôi xem ra cũng vẫn
có một điểm duy nhất chung là nội dung suy nghĩ về thế sự đã không hề khác
nhau, cụ thể như được biểu lộ ra bằng mấy câu thơ mộc mạc trên đây.
Vì
thế mà tôi muốn diễn đạt cái căn bản ý tưởng ấy bằng cách cho đăng lại trong
cùng một số câu thơ bên cạnh nhau, như một hình thức thể hiện lên cái sắc xuân
muôn thuở của tình bằng hữu./.
Tháng
11 năm 2018.
* Phạm
Quốc Bảo.
Chú
thích:
[1]
Sự kiện này được ông Bùi Công Luân viết kể lại trong phần của bài“Chị &
Anh” có in ở cuốn thơ Chớp Biển.
[2]Trong
bài này, tôi xử dụng một số thơ rút ra từ
cuốn Hán Tự Hài Cú, nhưng dựa cậy vào mối giao tình văn hữu mà đã không chính thức xin phép trước. Mong tác giả
Ngô Văn Tao niệm tình thứ lỗi.
[3]
Hán Tự Hài Cú, dịch nghĩa là Những câu (thơ) ý nhị bằng chữ Hán. Thực ra nội
dung cuốn này là những bài thơ bằng các thứ chữ Hán-Việt, Nôm và Việt ngữ..
[4]
Tử viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai,
bất diệc lạc hồ?” trích Chương 1 Học Nhi, Luận Ngữ, do Chu Hy (1130-1200) biên
soạn và chú giải.
[5]Trong
website https://www.thivien.net/T%E1%BA%A3n-%C4%90%C3%A0/author-FOvItidPjMKModgAy49buw;
thì tiêu đề này được ghi là:“Thư đưa người tình nhân không quen biết” thuộc cuốn
Khối Tình II. Rồi lại “Thư trách người
tình nhân không quen biết”và “Thư lại trách người tình nhân không quen biết”thuộc
cuốn Khối Tình III.
[6]
Trích Lời Giới Thiệu của Phan Thị Trọng Tuyến, trang 08, “tuyển tập Những Mảng
Rời Lê Tài Điển, với đóng góp của bạn hữu”