Sorrento – Nguồn: google image
“…anh vẫn nhìn thấy đôi mắt em
trong những đêm mơ… đừng nói lời vĩnh biệt… hãy về lại Sorrento…” Đây là
những lời tôi dịch vội từ bản tiếng Anh, Come Back to Sorrento, phiên bản Dean
Martin của bản tình ca bất hủ Torna a Surriento của Ernesto DeCurtis. Tôi mê
bản nhạc này từ những ngày mới bước chân vào trung học, qua lời ca tiếng Việt
của Phạm Duy, Trở Về Mái Nhà Xưa. Lúc đó, tôi chưa hề thật sự sống xa nhà, chưa
thật sự có những mất mát lớn nào, nhưng mỗi lần nghe vẫn thấy thắt ruột, cảm
giác như mình đang trong tâm trạng một kẻ tha phương trở về ngôi nhà cũ. Cho
đến một ngày, tôi vĩnh biệt tuổi thơ, rồi sống biền biệt xa nhà, sống xa bao
người thân, trải qua bao mất mát kinh hoàng. Lúc đó, đêm nào nghe Luciano
Pavarotti hát Torna a Surriento, tôi không ngủ được. Tôi không hiểu thổ ngữ
Neapolitan của Ý, không hiểu ý nghĩa lời ca nguyên gốc, nên nghe nhạc tôi liên
tưởng đến lời ca của Phạm Duy. Tôi mơ thời gian đi ngược, tôi mơ tôi thấy lại,
tôi có lại… Tôi tưởng chừng đang nghe tiếng chân những hồn ma từ quá khứ trở
về.
Tôi vào trung học Võ Tánh năm 1952,
cùng lúc với các bạn Ðặng Như Ðức, Nguyễn Công Thuần, Nguyễn Ðình Vinh, Lê Ánh,
Tôn Thất Chuyết, Từ Văn Minh, Nguyễn Văn Tài, Trương Túy Trúc, Hoàng Thị Ngọc
Táo, Trần Thị Hảo, v.v… Lúc đó trường chưa có cơ sở riêng, phải mượn một số lớp
của trường Nam Tiểu Học, trên đường Hàn Thuyên. Ðến giữa năm, trường dời về trụ
sở mới trên đường Bá Đa Lộc. Cũng trong năm đó, trường không còn mang tên Collège
de Nhatrang, hay trường Trung Học Công Lập Nha Trang do anh cả tôi, Trương Văn
Như, làm hiệu trưởng mà mang tên mới, Võ Tánh, với thầy hiệu trưởng mới, Lê Tá.
Bây giờ trường mang tên Lý Tự Trọng. Ðã bao nhiêu biển dâu kể từ những ngày xa
xưa đó. Nhưng mỗi khi hồi tưởng, hình ảnh nổi bật vẫn thường là hình ảnh những
thằng bé sau giờ học chạy ra biển, chạy theo những con dã tràng, rong chơi,
rượt bắt với bạn bè trên cát, hay hái trộm trái tra của Sở Thuốc dọc bờ biển
Nha Trang. Biển gắn liền với tuổi trẻ chúng tôi.
Năm mươi ba năm sau, do lời mời của
Tôn Thất Chuyết, chúng tôi, một số bạn bè từ năm xưa, những thằng nhóc con của
trường Võ Tánh ngày nào, lại gặp nhau, sống chung với nhau một tuần lễ trong
cùng một ngôi nhà trên bãi biển. Không phải biển Nha Trang mà biển Puerto
Vallarta của Mễ Tây Cơ. Bãi biển chúng tôi đến còn khá hoang sơ, không giống
với Nha Trang bây giờ nhưng khá giống với Nha Trang của 53 năm trước. Với mái
tóc đã bạc hay ít nhất cũng đã muối tiêu, Nguyễn Xuân Ngật, Nguyễn Công Thuần,
Từ Văn Minh, Nguyễn Lưu Phương, và tôi đều mang bà xã theo. Đến đây để thăm
Chuyết, đang làm đồn điền ở đó, và để được sống trong một không gian ít nhiều
giống cái không gian những ngày cũ. Trong số này, có vài người hơn 40 năm chưa
gặp lại. Khi gặp, tất cả đều đã qua những chuỗi dài ngày tháng khác hẳn nhau.
Những ngày ở Puerto Vallarta, mỗi
sáng chúng tôi đều xuống ngâm mình dưới biển, không bơi nhưng tụm lại nói
chuyện xưa. Đứa nào còn, đứa nào mất. Đứa này bây giờ ra sao, đứa kia bây giờ
ra sao. Tôi muốn nói ra đây vài lời về hai người bạn được nhắc đến trong những
câu chuyện đó: chị Trần thị Hảo và Đồng Sĩ Thạnh. Các bạn tôi không biết hiện
giờ chị Hảo ra sao nhưng tôi biết. Tôi không biết những gì đã xảy ra cho Đồng
Sĩ Thạnh nhưng các bạn tôi biết rõ. Nghĩ đến họ, tôi không thể không hồi tưởng
đến căn nhà cũ của tôi trên đường Hàn Thuyên. Từ trong nhà ngó ra, tôi có thể
theo dõi bước chân biết bao bạn bè đi học phải đi ngang qua đó. Có nhiều người
tôi không bao giờ gặp lại, trong đó có chị Hảo. Tôi không bao giờ quên được nét
mặt phúc hậu của chị. Chị lớn lên trong một gia đình có đức tin tôn giáo mạnh.
Anh ruột chị, anh Trần Bá Lộc có thời gian làm quận trưởng Diên Khánh và từng
là một giáo viên giỏi ở Nha Trang. Một người anh khác, Trần Bá Khương, là con
rể của thầy Cung Giũ Nguyên. Sau 1975, chị Hảo dắt đứa con gái duy nhất vượt
biển nhưng cả hai không bao giờ tới nơi, không bao giờ trở về. Số phận đó cũng
đến với một số người thân của anh Lộc. Về Đồng Sĩ Thạnh, đến lúc đó tôi mới
biết là Thạnh đã tử trận từ trước 1975. Một năm sau lần hội ngộ ở Puerto
Vallarta, tôi có về thăm Việt Nam. Tình cờ, khi đến một nghĩa trang tư ở ngoại
ô Nha Trang viếng mộ ông bà nhạc, tôi chợt thấy ngôi mộ của Thạnh, không biết
mộ xây từ lâu hay mới dời về đó. Trên mộ, có hình của Thạnh, còn rất rõ, trong
áo nhà binh, tóc ngắn, khoảng tuổi 25 đến 30, đẹp trai, trong sáng. Tôi cắm
trên mộ Thạnh một nén nhang.
Một buổi tối ở Puerto Vallarta,
chúng tôi được mời đến dùng cơm tại nhà một gia đình người Ý, bạn của Chuyết.
Gia đình này sang Mễ Tây Cơ lập nghiệp khá lâu. Họ có một phòng tranh gần chỗ
chúng tôi ở. Tranh trưng bày ở đó không có gì đặc sắc, nhưng ngôi biệt thự của
họ thật xinh xắn. Từ sân thượng nhìn ra xa, qua những mái nhà ngói đỏ san sát
là biển Puerto Vallarta. Hôm đó họ có mời vài người bạn Ý và một người Ðức mới
đến làm ăn ở đây từ Canada. Sau bữa cơm tối kiểu Ý, tất cả lên sân thượng ngồi
uống cà phê, nói chuyện và ca hát. Người bạn Ðức phụ họa bằng accordéon. Tôi
yêu cầu họ hát Torna a Surriento. Bài ca bất hủ này người Ý nào cũng biết.
Những người Ý và Ðức đều xa quê hương nên họ hát và đờn Torna a Surriento một
cách say sưa. Hát rất to. Ðang nửa chừng bỗng chúng tôi nghe một giọng nữ cao
vút… Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan… Giọng hát của chị Oanh, bà xã của
Thuần, trong sáng, tha thiết. Nhóm bạn Ý vội ngưng để lắng nghe, để chị hát
tiếp một mình. Những người bạn Ý chắc không biết rằng Torna a Surriento với lời
Việt của Phạm Duy đã gắn liền với tuổi trẻ chúng tôi như thế nào, đặc biệt vào
những tháng ngày chúng tôi sống xa quê. Lời của Phạm Duy trong Trở Về Mái Nhà
Xưa không hẳn là bản phỏng dịch của Torna a Surriento. Trong bản tiếng Việt, về
lại Sorrento không phải chỉ để mong gặp đôi mắt ngày cũ, mà để nghe tiếng hú
hồn mê oan, để đốt ánh đèn im bóng vào rêu xanh, để thấy kiếp xưa bước nhẹ về,
để ngồi im bóng lắng nghe tháng ngày qua... Và, dù lời hát có khác nhau,
tiếng nhạc của Torna a Surriento lúc nào nghe cũng tha thiết, thắt ruột.
Tháng 8 năm đó, nhân một chuyến du
lịch vùng Địa Trung Hải, vợ chồng tôi cùng với hai người bạn quyết định đi thăm
Sorrento. Từ Naples về Sorrento, xe bus chạy dọc theo bờ biển khoảng bốn tiếng
đồng hồ. Tuyệt đẹp. Khi gần đến, một thiếu phụ Mỹ ngồi cạnh hát khe khẽ bản
Come Back to Sorrento, … when I pass a garden fair and the scent is in the
air in my mind a dream awakes and my heart begins to break… Come Back to
Sorrento không còn là của riêng của Ernesto DeCurtis, cũng không còn là của
riêng người Ý. Nó trở thành một bài hát của bao nhiêu người đã từng có một tình
yêu sâu đậm cho một người, một mái nhà, một vùng đất đã rời bỏ đi mà nếu có trở
về cũng chỉ còn cảm nhận được những hồn ma ngày cũ. Sorrento cũng là một thành
phố biển, không có những bãi cát thoai thoải như Nha Trang mà từ biển nhìn lên
chỉ thấy những vách đá thẳng đứng. Trong tác phẩm của thi hào Homer, Sorrento
là nơi trú ngụ của những mỹ nhân ngư, chuyên dùng tiếng hát mê hoặc mấy tay
thủy thủ lỡ dại đi ngang vùng biển này, để rồi từ từ ru họ vào cõi chết. Ngày
nay, Sorrento là một thành phố du lịch khá nổi tiếng của Ý. Tuy nhiên, rất
nhiều du khách đến đây không phải vì thành phố biển đó đẹp, mặc dầu nó đẹp
thật, mà chỉ vì bản Torna a Surriento mà trong tuổi trẻ của họ, họ đã từng
nghe, đã từng hát và đã giao cảm với tâm trạng của tác giả.
Mỗi người trong chúng ta đều có một
Sorrento cho riêng mình. Với nhiều người trong chúng tôi, Nha Trang có thể cũng
là một Sorrento, nhưng Nha Trang trong nghĩa này chắc không phải chỉ là biển,
chỉ là thành phố. Biển thì ở đâu lại không có, và có rất nhiều bãi biển đẹp
hơn. Thành phố cũng thế. Nhưng cái gì khiến mỗi lần nghe Back to Sorrento tôi
thắt ruột và nhớ đến Nha Trang? Hay, có nhiều đêm, chỉ nghe tiếng sóng biển
cũng nhớ đến Nha Trang, ngửi hơi gió biển cũng khiến nhớ đến Nha Trang? Có lẽ
vì Nha Trang liên hệ chặt chẽ đến một thế giới của tuổi trẻ, trong đó có biển,
có phố, có những hàng cây, những con đường… Và, trên hết, ở đó, không phải chỉ
có hạnh phúc mà còn có đau buồn, mất mát. Không phải chỉ có niềm vui mà còn có
luyến tiếc, ray rức, nợ nần. Không phải chỉ có thành công mà còn có thất bại.
Không phải chỉ có điều tốt mà còn biết bao lỗi lầm… Nhưng đặc biệt, đó là một
thế giới mang đầy dấu vết sâu đậm từ những liên hệ con người. Rất đặc thù. Một
thế giới riêng cho mỗi người trong chúng ta.
Thời gian ở Puerto Vallarta, chúng
tôi thường nhắc đến những hình ảnh từ thời còn đi học ở Nha Trang mà mỗi đứa
đều nhớ rõ. Những hình ảnh đó không hoàn toàn giống nhau với mỗi đứa. Chẳng
hạn, với tôi, hình ảnh còn in sâu đậm là cảnh sau đêm bão Nhâm Thìn, đèn điện đều
tắt, nước biển tràn lên đến tận nhà Bưu Ðiện. Lúc đó, tôi khoảng hơn 10 tuổi,
kéo vài bạn bè chạy xuống xem sóng lớn trong đêm, vừa vui vừa sợ vừa lạnh.
Trước đó vài tháng, cũng ở khoảng biển đó, khi nghe tin một thiếu nữ tự tử, tôi
chạy xuống xem vừa kịp nhìn thấy cảnh một số thanh niên đang đưa xác cô gái lên
bờ. Hôm đó biển động. Ðó là lần đầu tiên tôi chứng kiến một xác chết trên biển.
Tôi bắt đầu thấy rằng biển cũng khá tàn bạo, không phải lúc nào cũng êm đềm như
lúc biển lặng để mình nhào xuống tung tăng bơi
lội hay kéo nhau rượt đuổi trên cát.
Một hình ảnh chúng tôi nhớ khá nhiều
là hình ảnh những người đàn bà điên trong thành phố. Khi nhắc đến họ tôi có một
ray rứt. Trong đời sống, những ray rứt hay những luyến tiếc nhiều biết chừng
nào. Nhưng có những cái thoạt nghĩ không có gì quan trọng mà lại luôn luôn còn
đó, để trở thành một phần bất khả ly của một thế giới trong hồi tưởng. Một
người đàn bà điên tôi nhớ đến nhiều nhất là Bà Hai, ở trước ngôi nhà cũ của tôi
trên đường Hàn Thuyên. Bạn bè hầu hết đều nhớ đến hình ảnh một người đàn bà
thường ngồi vắt vẻo trên bức tường trước nhà, la hét, chỉ chỏ, cười nói, chửi
rủa. Năm tôi khoảng mười tuổi, bà chưa điên. Một buổi chiều gần tối, khi đang
chia phe đánh lộn với lũ bạn trong xóm thì có một đứa bé khoảng năm tuổi đến
nói với tôi là bà Hai gọi tôi. Tôi theo nó vào nhà, một căn nhà tăm tối nhỏ như
một cái am, ở sau những căn nhà cất cho nhân viên quan thuế. Bà Hai muốn tôi
viết giùm một bức thư cho mạ và những bà con của bà ở Huế. Bà đọc cho tôi viết và
hứa sau khi viết xong sẽ cho tôi hai đồng. Ðang viết nửa chừng, tôi nhớ đến
“trận đánh” ngoài kia nên nói với bà tôi phải chạy ra chơi sau đó sẽ trở lại
viết tiếp. Tôi đã không trở lại viết tiếp. Rồi quên bẵng đi cho đến khi tôi đã
trở thành người “lớn”, đã lập gia đình, có con, và bà Hai đã trở thành bà Hai
“điên”. Các con tôi mỗi khi gặp bà đều trốn chạy. Những lúc bà tỉnh táo tôi có
hỏi thăm gia đình bà nhưng không dám nhắc lại chuyện bức thư viết dở. Cách đây
tám năm, tôi có về lại Nha Trang, có đến những căn nhà đó. Mọi thứ hoàn toàn
thay đổi. Bà Hai điên không còn nữa. Lúc đó, tôi thật sự có một mơ ước, là ngày
xưa, tôi đã viết xong bức thư cho bà, để bà gửi cho mạ. Bức thư tôi viết dở
dang chẳng dùng được gì cả, chẳng có nghĩa gì cả. Một ước mơ nhỏ nhưng sẽ không
bao giờ thực hiện được. Mà trong đời tôi, có rất nhiều ước mơ rất nhỏ, có từ
thời còn đi học ở Nha Trang, ấp ủ rất lâu nhưng đến khi có cơ hội thực hiện thì
lại coi thường rồi để vuột mất. Không nói chi đến những ước mơ lớn.
Tôi bắt đầu tập chơi guitare cổ điển
khi lên trung học, nhưng chỉ học lóm với bạn bè và thường thì tự học. Dĩ nhiên
không thế nào đờn hay được bằng một cách học như vậy. Dầu sao, tôi cũng mê đờn
một thời gian khá lâu, và đặc biệt nhờ đó tôi làm quen và ham thích nhạc cổ
điển tây phương. Lúc đó Nha Trang không có trường hay lớp dạy nhạc cổ điển. Qua
một số đĩa nhạc do một người du học ở Mỹ mang về, tôi nghe được tiếng đàn
guitare của Andres Segovia và một số bài giao hưởng trình tấu bởi dàn nhạc nổi
tiếng của thành phố Philadelphia dưới sự điều khiển của nhạc trưởng thời danh
Eugene Ormandy. Ðĩa cũ, máy cũ, tiếng nhạc rè rè khiến tôi mơ một ngày nào đó
được tận mắt nhìn và nghe Segovia hay dàn nhạc Philadelphia với Ormandy trình
tấu. Những giấc mơ đó tuy tầm thường nhưng lại rất xa vời với một học trò tỉnh
lẻ ở Việt Nam vào lúc đó. Quá xa vời để không dám ấp ủ, và rồi lần lần quên đi.
Guitare thì thỉnh thoảng vẫn cầm lên chơi cho đỡ buồn và càng lúc càng biết
mình chơi sai.
Ðầu tháng tư 1975, Nha Trang đổi
chủ. Bao nhiêu ước mơ lớn ấp ủ đến lúc đó bay biến hết, nói chi đến chuyện đờn
địch. Một buổi sáng, tôi còn nhớ rõ, Nguyễn Văn Tài đến chơi. Thấy cây đờn tôi
treo trên tường, Tài lấy xuống và bắt đầu đánh một số đoản khúc của Francisco
Tárrega. Tôi rất ngạc nhiên. Tôi chơi với Tài từ lâu lắm, nhưng không hề biết
là Tài chơi guitare classique và chơi rất hay, rất đúng sách vở. Khi Tài sắp
về, tôi bảo Tài lấy cây đàn của tôi về đi, cây đàn tương đối tốt cho guitare
classique. Tài lắc đầu. Sau đó không lâu, tôi từ biệt Nha Trang. Sang Mỹ, tôi
có mua một cây đàn rẻ tiền và thỉnh thoảng cầm lên chơi dù vẫn chơi dở như ngày
nào. Thành phố tôi ở là Philadelphia. Dàn nhạc giao hưởng của thành phố này vẫn
đang nổi tiếng và nhạc trưởng Ormandy vẫn còn đó. Rất nhiều lần tôi đi qua lại
trên đường Broad nơi trình diễn của dàn giao hưởng và định mua vé vào xem.
Nhưng tiền học bổng ít, những thứ cần chi lại nhiều, tôi không dám mua vé, và
luôn tự hứa là để khi nào có tiền sẽ trở lại xem. Sau này khi về vùng DC làm
việc, đã có điều kiện tương đối về tài chánh, định trở lại Philadelphia thực
hiện giấc mơ nhỏ ngày nào. Lúc đó mới biết Ormandy đã nghỉ hưu và dàn nhạc
Philadelphia không còn phong độ như trước nữa. Eugene Ormandy là một thiên tài
âm nhạc. Ông sinh ở Hung Gia Lợi, mới 7 tuổi đã trình tấu vĩ cầm, và tốt nghiệp
thạc sĩ về âm nhạc năm 14 tuổi. Ông di cư sang Hoa Kỳ năm 1921, điều khiển dàn
giao hưởng Philadelphia từ 1936 đến 1980 và mất ở đó năm 1985. Cũng trong
khoảng đầu thập niên 1980 đó, tôi được tin Andres Segovia đến vùng Washington
DC để trình diễn guitare cổ điển tại trung tâm Kennedy, không xa nơi tôi ở.
Không nhớ vì lý do gì tôi không đến xem, để rồi sau đó mới biết đây là lần
trình diễn cuối cùng của Segovia ở vùng này. Segovia, người Tây Ban Nha, là một
bậc thầy vĩ đại của guitare cổ điển, người đã đưa cây đàn guitare lên hàng nhạc
cụ hòa tấu. Ông mất ở Madrid năm 1987, lúc 94 tuổi.
Trở lại câu chuyện với Nguyễn Văn
Tài. Tài là bạn thân của tôi từ thời trung học. Khi về thăm Việt Nam, chúng tôi
thường đi chơi với nhau, nhắc lại những chuyện tình xưa cũ như kể chuyện trong
mơ. Tài vẫn còn độc thân, đã về hưu, và được giữ lại dạy toán cho một ít học
trò theo chương trình Pháp. Tôi tỏ ý tiếc là Tài không tiếp tục chơi đàn nữa.
Tài không nói gì. Trong một buổi họp mặt với một vài thầy giáo và nhiều đồng
nghiệp, bạn bè cũ, tôi có mời thầy Ngân lên hát lại cho chúng tôi nghe bản One
Day của Johann Strauss. Thầy Ngân với thầy Ðào là hai thầy dạy Anh văn của
chúng tôi thời trung học, cả hai đều rất tài hoa, và đều có mặt trong buổi tối
hôm đó. Lần đầu tiên trong đời tôi nghe được bản One Day là do thầy Ngân hát
trong lớp khoảng năm tôi 14 hay 15 tuổi. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh
của thầy khi hát bản này. Khi tôi yêu cầu thầy lên hát, thầy cười nhưng từ
chối, có lẽ thầy nghĩ là mình đã già rồi. Nhưng một đồng nghiệp cũ của tôi, cô
Lộc, dạy Pháp văn, và trước 1975 có thời gian là bí thư của Viện trưởng Ðại
học, lên hát bản đó. Cô Lộc hát rất hay, rất có hồn, nhưng lại không thuộc hết
bản, vì chắc cũng đã lâu lắm rồi không hát. Bất ngờ, Tài bước lên lấy micro từ
tay cô Lộc, hát tiếp. Tài hát một cách say mê. One day when we were young,
one wonderful morning in May, you told me you loved me…
Trong những lúc ngâm mình ở biển
Puerto Vallarta, chúng tôi nhắc nhiều đến những bạn từ nhỏ đã đi vào con đường
văn chương. Không kể lớp đàn anh như Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Hữu Trí, hay lớp
sau như Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Tôn Nữ Nha Trang, đồng lớp với chúng tôi cũng có
khá nhiều, như Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Ðức Sơn, Nguyễn Văn
Liễu (tức Trịnh Cung, họa sĩ và cũng là nhà thơ), Trần Văn Nam, Bùi Cao Hoành
(Cao Hoành Nhân), Lê Hữu Phước (Hải Phương), v.v…
Tôi và Nguyễn Ðức Sơn có những liên
hệ đặc biệt. Chúng tôi học chung với nhau từ tiểu học. Ba Sơn, thầy Nguyễn Đức
Nhơn, là thầy dạy Pháp văn của tôi ở trung học. Má Sơn là bạn của má tôi. Thầy
Nhơn đi kháng chiến từ 1945 hay 1946. Cô ở lại Nha Trang, tần tảo nuôi con.
Thời gian chúng tôi sinh hoạt Hướng Ðạo, hầu hết những cái lều bị rách đều được
cô vá lại. Năm 1954, sau hiệp định Genève, thầy Nhơn không đi tập kết, trở về
lại Nha Trang. Không hiểu vì sao sau đó hai người ly dị nhau, các con chia đôi.
Chúng tôi đều để ý là từ lúc đó Sơn là một đứa học trò đầy phẫn nộ. Mọi người
đều thấy rõ là Sơn luôn tỏ ý bất mãn với thầy. Tuy nhiên, mãi sau này, khi Sơn
đã là một nhà thơ nổi tiếng, Sơn có viết một bức thư cho cha, rất cảm động,
đăng trong một cuốn thơ xuất bản trước 1975. Trong chuyến về thăm Việt Nam cách
đây tám năm, tôi có gặp Sơn nhiều lần, và có lúc tôi định hỏi vài vấn đề riêng
tư liên quan đến gia đình, đặc biệt, liên quan đến thầy cô Nhơn, nhưng rồi
không có dịp thuận tiện nên thôi. Sơn có một cá tính đặc biệt, một cá tính
mạnh, điều đó bạn bè và những người đọc sách của Sơn đều biết. Sơn có một thế
giới riêng, có vẻ như cố làm cho quái dị. Thật sự, dưới lớp ngoài trông rất
phức tạp, Sơn là một người chơn chất. Sơn là một tài năng của văn học Việt Nam.
Nhưng vượt lên cả tài năng, Sơn là một mẫu nhà văn và trí thức rất hiếm hoi,
dám sống và nói thật về điều mình tin, nhất là trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam
của vài chục năm qua. Có thể những điều Sơn tin và sống hết lòng với nó không
hẳn được mọi người chia sẻ, nhưng cách sống đó đáng được kính phục. Thơ của Sơn
phản ảnh hoàn toàn con người Sơn. Mỗi lần chạy lòng vòng với cuộc sống ở Mỹ và
cả lòng vòng với trí óc của chính mình, tôi thường nghĩ đến một bài thơ của
Sơn, và thường đọc cho bạn bè nghe:
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.
Ðầu năm ngoái, khi xem một phim
vidéo quay lại buổi họp mặt bạn bè Võ Tánh 1952-1958, tôi rất vui khi thấy Sơn
trong đó. Khá bất ngờ, vì tôi biết Sơn rất kỵ những họp mặt như vậy. Tôi chờ
đợi Sơn lên nói điều gì nhưng không thấy. Sau đó, tôi biết sở dĩ không ai dám
mời Sơn lên nói vì sợ những điều Sơn nói… gây rắc rối. Tôi thông cảm với bạn bè
nhưng tôi không vui. Chúng ta thường chỉ thích nghe hay nói những lời “phải
đạo” và do đó những gì được nói ra trong những họp mặt của trường này trường
nọ, ở nơi này nơi nọ, thường rất giống nhau. Mà nếu cuộc đời chỉ được tạo nên
bằng những gì “chung chung”, những gì “phải đạo” thì làm sao có được một
“Sorrento” riêng cho mỗi người, để phải thắt ruột mỗi khi muốn về lại.
Nói đến Sơn tôi không thể không nhớ
đến những bài học với thầy Nhơn. Bài học khó quên nhất là bài giảng về truyện
ngắn La Chèvre de Monsieur Seguin (Con dê cái của ông Seguin) của Alphonse
Daudet. Con dê con của ông Seguin rất dễ thương, ngoan ngoãn, được nuôi tử tế
trong vườn sau của ông. Nhưng rồi, một ngày kia, cũng như những con dê trước
đó, nó phá rào, chạy lên núi, nơi đó những con sói hung tợn đang chờ. Dê con đã
dùng chiếc sừng nhỏ bé tử chiến với sói suốt đêm. Đến hừng đông, nó gục ngã.
Thầy Nhơn giảng bài đó rất hay. Khi giảng, thầy như sống với tâm trạng của dê
con. Tôi nhớ mãi bài học đó, thích thú với câu chuyện của Alphonse Daudet nhưng
càng lớn tôi càng không đồng ý với cái kết thúc của truyện. Tôi biết, từ đời
sống thật, có rất nhiều, rất nhiều dê con đã vượt khỏi nanh vuốt của sói để tự
do tung tăng trên đỉnh non cao.
Một bài khác cũng rất khó quên, được
học từ khoảng thời gian này, là bài J’accuse (Tôi tố cáo) của Émile Zola. Nhà
văn Émile Zola viết J’accuse để tố cáo chính phủ Pháp, quân đội Pháp, giáo hội
Công giáo Pháp vả cả nhân dân Pháp vì tất cả đã sai lầm trầm trọng khi kết tội
đại úy Alfred Dreyfus làm gián điệp cho Đức. Cả nước Pháp nổi giận, kết tội
Émile Zola. Rất ít người đồng ý với ông. Émile Zola phải trốn sang Anh và chết
năm 1902. Bốn năm sau, nước Pháp chính thức công nhận Émile Zola đúng, đại úy
Dreyfus vô tội. Cho mãi đến hôm nay, hơn một trăm năm sau, hầu như các trường
học nào trên thế giới cũng đều có giảng dạy về vụ án Dreyfus và bài J’accuse
của Émile Zola. Với tôi, hai bài học này lúc nào cũng được tiếp tục học và
không phải lúc nào cũng thuộc.
Bài J’accuse tôi không học từ thầy Nhơn
mà học từ thầy Nguyễn Suyên, một thầy dạy văn rất giỏi về Đường thi. Thầy dạy
bài này vào một thời gian ngắn thầy tạm phụ trách môn Lịch sử Thế giới thay
người khác. Trong một chuyến về Houston cách đây hai năm, tôi đi ăn tối với vợ
chồng Nguyễn Tấn Hường, một bạn thân, cùng với một số bạn khác. Trong buổi tối
đó chúng tôi có nhắc đến thầy Suyên. Hường là học trò giỏi của thầy, có kể lại
một kỷ niệm. Khi chúng tôi còn học ở Sài Gòn, thầy Suyên mất. Hè năm đó, khi về
lại Nha Trang, tôi và các bạn Hường, Phê, Thái có đến thăm mộ thầy, ở bên kia
cầu Hà Ra. Đứng trước mộ, Hường bắt chước giọng ngâm của thầy, ngâm bốn câu đầu
trong Binh Xa Hành của Đỗ Phủ. Xa lâng lâng mã tiêu tiêu, hành nhân cung
tiễn các tại yêu, gia nương thê tử tẩu tương tống, trần ai bất kiến Hàm Dương
kiều. Nghe Hường kể lại kỷ niệm này, tôi giật mình. Tôi nhớ, thầy Suyên
thường ngâm bốn câu này trong lớp, bằng cách ngâm theo giọng Bình Định rất đặc
biệt của thầy. Về văn, tôi là một học trò loại trung bình và khá lười biếng nên
ít khi thuộc thơ. Tuy nhiên, bốn câu đó tôi thuộc và thỉnh thoảng đọc lên mà
thật sự không nhớ mình học được từ đâu. Bây giờ thì tôi nhớ. Ngày nay, cái
nghĩa trang nơi chôn thầy Suyên đã bị san bằng, nhà cửa xây san sát trên đó.
Trong chúng tôi, không ai biết nắm xương tàn của thầy hiện nằm đâu. Cũng như,
chắc không mấy ai biết ngôi mộ của thầy Nhơn nằm đâu. Nhưng tôi tin rằng những
bài học của các thầy vẫn còn nằm đâu đó trong tiềm thức rất nhiều học trò cũ.
***
Trong chuyến về Việt Nam đầu tiên,
năm 2001, tôi thường đến thăm thầy Cung Giũ Nguyên. Lúc đó, thầy còn rất khỏe
và hai thầy trò đi ăn tối với nhau nhiều lần. Năm 2006, tôi có về lại. Lần này,
thầy đã yếu lắm, không đi đâu. Buổi chiều trước khi rời Nha trang, tôi đến từ
giã và ngồi nói chuyện với thầy khá lâu. Thầy nói nhiều. Nói chuyện cũ, nói
chuyện mới, nói cả suy nghĩ của thầy về những gì đang xẩy ra nơi tôi sống, bên
này bờ đại dương. Đôi lúc, theo phản ứng tự nhiên của một anh học trò ưa cãi,
tôi định ngắt lời thầy nhưng kịp dừng lại. Tôi ngồi im lắng nghe từng lời nói
của thầy và bắt đầu cảm nhận mình đang hưởng những giây phút có thể không bao
giờ có lại. Tối hôm đó, tôi đi bộ xuống biển, nhìn từng đợt sóng vỗ nhẹ vào bờ,
rồi nhớ lại, như mới ngày nào, những dấu chân thon trên cát, những đêm dìu nhau
dưới mưa, những nụ hôn bất chợt,…
Về lại Mỹ, tôi bắt đầu viết bài này.
Sau đó bỏ ngang vì thấy chứa quá nhiều cái riêng tư, lỉnh kỉnh. Không lâu sau,
tôi được tin vài học trò cũ, rất gần gũi, mới gặp lại sau hai mươi lăm năm xa
cách, đột ngột ra đi. Nguyễn Lương Thuật, tôi mới biết là có một thời cùng sinh
hoạt Hướng Đạo với nhau, định khi gặp lại sẽ hỏi han thêm những kỷ niệm thời
đó, cũng đột ngột ra đi. Vài bạn bè khác cũng thế. Rồi, một hôm, đến thăm bà xã
anh Nguyễn Nho nằm trên giường bệnh. Mới ngày nào, anh chị đến nhà tôi chơi,
bây giờ chị nằm đó, ngó thẳng vào tôi, không chớp mắt, không nhận ra ai. Qua
anh Nho, tôi thấm thía với bài học về tình yêu, lòng tận tụy và tính tự tại.
Rồi, hè năm ngoái, má tôi mất. Cuối năm, thầy Nguyên mất. Đầu năm nay, một bạn
thân từ những năm đầu đại học, Trần Duy Nhiên, đột ngột qua đời. Tôi ngồi vào
bàn computer, sửa lại chút đỉnh rồi tiếp tục bài viết này. Tôi tin rằng, nếu
bây giờ tôi có nói lan man chuyện cũ chắc bạn bè không mấy ai trách.
Mỗi người trong chúng ta đều có một
Sorrento, để về lại trong hồi tưởng. Dù có lẫn lộn với bao cảm xúc trái nghịch
nhau, khi về lại, ít nhiều chúng ta cũng tìm được ở đó một gốc để nghỉ ngơi.
Tôi xin kết thúc bài viết bằng một câu chuyện phỏng dịch từ cuốn sách nhỏ, The
Giving Tree, của Shel Silverstein. Ông viết và minh họa cho trẻ con lẫn người
lớn. Những minh họa của Silverstein độc đáo, tôi đề nghị các bạn tìm xem cuốn
sách, do HarperCollins Publishers xuất bản. Câu chuyện như thế này:
Ngày xưa có một cây táo… nó yêu một
thằng bé
Mỗi ngày thằng bé đến chơi với cây
Kết lá làm vương miện, đội lên đầu
như chúa tể rừng xanh.
Thằng bé trèo lên thân cây, đu cành
cây, ăn trái
Rồi chơi trò cút bắt với cây.
Khi mệt nó nằm ngủ dưới bóng mát.
Nó yêu cây táo vô cùng
Cây thấy mình hạnh phúc.
Thời gian qua…
Thằng bé lớn lên và không còn đến
chơi với cây như ngày nào.
Cây thấy cô đơn.
Một ngày kia, thằng bé trở lại, cây
bảo:
“Này thằng bé, hãy đến đây, trèo lên
thân ta, đu cành ta, ăn trái cây của ta, và vui đùa dưới bóng mát của ta.”
Thằng bé trả lời:
“Ta lớn rồi, đâu còn leo trèo và
chơi đùa như thế nữa.
Ta cần tiền để mua sắm và vui chơi
như người lớn.
Ngươi có tiền cho ta không?”
Cây bảo:
“Ta không có tiền. Ta chỉ có lá và
trái cây.
Này thằng bé, hãy hái táo của ta đem
ra chợ bán.
Mi sẽ có tiền và mi sẽ sung sướng.”
Thằng bé liền trèo lên cây, hái thật
nhiều táo rồi mang đi.
Cây thấy mình hạnh phúc.
Nhưng rồi, lâu lắm không thấy thằng
bé
Cây táo buồn.
Bỗng, một ngày kia thằng bé trở lại,
cây rung cành lên hớn hở:
“Lại đây, thằng bé, hãy trèo lên
thân ta, đu những cành ta, và hãy vui đùa thỏa thích.”
Thằng bé bèn nói:
“Ta đâu có thì giờ để leo trèo
Ta lạnh lẽo và cần một mái ấm
Ta muốn có vợ, có con, nên cần một
mái nhà.
Ngươi có nhà cho ta không?”
Cây trả lời:
“Ta không có nhà, cả khu rừng này
xem như nhà của ta.
Nhưng, mi có thể chặt những cành cây
của ta để cất nhà.
Mi sẽ sung sướng.”
Và như thế, thằng bé chặt hết những
cành cây, rồi mang đi cất nhà.
Cây táo thấy mình hạnh phúc.
Nhưng rồi… lâu lắm, thằng bé không
trở lại.
Khi nó trở lại, cây vui mừng khôn
xiết, nhưng chỉ thều thào:
“Này thằng bé, hãy lại đây nô đùa
với ta.”
Thằng bé bảo:
“Ta già rồi, và buồn nữa, làm sao
vui đùa được.
Ta muốn có một chiếc thuyền để đi
thật xa khỏi nơi này.
Ngươi có thuyền cho ta không?”
Cây trả lời:
“Hãy chặt thân ta để làm thuyền
Rồi giăng buồm đi xa… và sống hạnh
phúc.”
Thằng bé bèn chặt thân cây, làm
thuyền rồi giăng buồm đi xa.
Cây táo thấy mình hạnh phúc…
Thật ra… không hẳn như thế.
Sau đó rất lâu, thằng bé trở lại.
Cây bảo:
“Thằng bé ơi, ta xin lỗi. Bây giờ,
ta chẳng còn gì cho mi nữa.
Ta chẳng còn trái táo nào cả.”
Thằng bé trả lời:
“Răng ta yếu lắm rồi, đâu còn ăn táo
được nữa.”
Cây lại bảo:
“Ta cũng chẳng còn cành cây nào để
mi đánh đu trên đó.”
Thằng bé trả lời:
“Ta già lắm rồi, còn sức nào mà đánh
đu trên cành nữa.”
Cây lại bảo:
“Ta cũng chẳng còn thân cây nào để
mi trèo lên chơi.”
Thằng bé trả lời:
“Ta yếu lắm rồi, đâu còn leo trèo gì
được nữa.”
Cây thở dài:
“Ước chi ta còn chút gì cho mi.
Giờ đây, ta chỉ là một gốc cây già
cỗi. Thế thôi…”
Thằng bé liền nói:
“Ta có thiết tha gì nữa đâu.
Ta chỉ cần một chỗ vắng vẻ ngồi
xuống nghỉ ngơi.
Ta mệt mỏi lắm rồi.”
Cây táo chợt như vùng dậy, bảo:
“Tốt lắm. Cái gốc cây già cỗi này
rất tiện để ngồi nghỉ.
Lại đây, thằng bé.
Hãy ngồi xuống và nghỉ mệt đi.”
Thằng bé bèn đi đến gốc cây, ngồi
xuống.
Và…
Cây táo thấy mình hạnh phúc.
TRƯƠNG VŨ
Maryland, tháng 3 năm 2009
Luciano Pavarotti
trình bày ca khúc Torna A Surriento