Lòng ta trôi chiều cũ dưới chân đèo, sơn dầu Đinh Trường Chinh
Mỗi
lần Tụng thả bộ xuống con dốc khá dài vòng theo ngọn đồi, không hiểu sao câu hát trong bài “Phố
núi” lại vang vang trong đầu anh, “Phố núi cao, phố núi trời gần, phố núi không
xa nên phố tình thân, đi năm phút trở về chốn cũ…” Anh chẳng biết cái phố núi
trong bài hát là gì, ở đâu, như thế nào. Nhưng rõ ràng anh cảm thấy có vẻ như ở
đây có một phố núi như thế. Có vẻ thôi. Thành phố ở trên một khu đồi hơn là núi. Đồi nhỏ, thấp.
Dốc thường ngắn, thoai thoải, có thể đi tản bộ lên xuống mà không cảm thấy mỏi
chân. Băng ngang qua công viên và một
bãi đất trống nữa là đến trường đại học. Đường dốc lên dốc xuống, dù người ta
đã cố gắng san phẳng nhiều khu vực. Trừ những đường lớn luôn luôn được chăm sóc
tử tế, giữ chúng trong tình trạng tốt, còn thì phần lớn những con đường nhỏ đều
xấu. Nhiều con đường trông như những lối đi với nhiều ổ gà. Cứ mỗi một mùa tuyết
chấm dứt, đường lại càng tệ hơn.
Nhưng
Tụng thích chúng. Ở cái xứ sở mà mọi thứ đều văn minh, sạch sẽ, tân tiến thì những
khuyết điểm đôi lúc lại có cái vẻ duyên dáng diểm trang riêng của chúng. Chẳng
hạn như những đoạn đường loang lổ, một vài căn nhà bỏ hoang, vài khu đất trống
đầy đồ phế thải cả thời gian dài chẳng ai ngó ngàng đến, và cả cái nhà vệ sinh
ngay trước Tòa Thị Chính rất bẩn thỉu, đầy
rác rưởi, nào là vỏ chai, lon bia, bình nhựa, bao bì dường như làm cho khung cảnh
có vẻ nhân văn hơn. Nhiều lần anh đi ngang qua những phố hẹp, nhà cửa cũ xì,
mùa hè, đường đầy tụi nhóc con đủ loại đen, trắng, nâu, vàng chạy nhảy, người lớn
thì bắt ghế ngồi trên vệ đường hoặc dưới mái hiên hút thuốc, trò chuyện vu vơ,
anh tưởng như đang đi trên một vùng quê nào đó ở các xứ nghèo. Người ta
thích sạch sẽ, văn minh, hiện đại, nhưng
cái tồi tàn, nghèo khổ hình như vẫn có cái gì thân thương hơn. Tại sao?
Anh chẳng hiểu tại sao.
“Phố núi không xa nên phố tình thân. Đi năm phút đã về chốn cũ.” Cái phố núi nào lạ
nhỉ? Năm phút để đi vòng cả một con phố?
Chắc người ta chỉ nói tượng trưng thế thôi! Phố núi ở đây tuy nhỏ, nhỏ so với hàng ngàn
thành phố ở xứ này, nhưng cũng phải tốn hết cả giờ đi bộ. Tuy thế, tình thân thì
anh cảm nhận được khi đi đi về về con dốc này. Chỉ ở con dốc này thôi. Nhà anh ở
bên kia ngọn đồi nhỏ, kế đường rầy xe lửa. Con đường duy nhất để anh xuống phố,
đi học, đi chợ là con đường cong cong vòng theo ngọn đồi. Trên đỉnh đồi là trụ sở của một công ty bảo hiểm sức khỏe.
Dọc hai bên đường là những căn nhà “single” nhỏ nhắn, phần đông đều cũ. Những
khu vườn nhỏ kế nhau. Mỗi nhà mỗi kiểu. Nét chung chung duy nhất ở đây là nhà
nào cũng sơn màu sẫm. Một số nhà kẻ từng ô chữ nhật trông như những viên gạch
trên phần tường phía ngoài. Chúng gợi
cho anh dáng nét của những ngôi đình cũ đâu đó ở quê anh. Mùa đông, màu sẫm buồn
bã này chìm trong màu tuyết trắng thê lương.
Tuy thế, mùa hè, núp dưới bóng các tàn cây
xanh, phía trước là những thảm cỏ mượt mà cắt xén cẩn thận, chúng đâm ra trông
rất có duyên. Mùa thu lại càng tuyệt đẹp. Tất cả nhà cửa chìm hẳn vào biển màu
mùa thu tím, đỏ, vàng, nâu, tía. Màu lá, màu tường, màu mái nhà hòa hợp vào
nhau một cách sống động. Suốt mùa thu,
anh đi bộ hàng ngày qua con đường, chân bước
trên lối đi ngập lá, nghe tiếng lao xao của hàng ngàn, hàng ngàn chiếc lá rơi lòa
xòa khắp cả không gian. Lá, trời ơi, lá!
Những chiếc lá đủ màu - có lá có khía
răng cưa, có lá giống như ngôi sao - tưởng như trùm cả trời đất, cả cuộc sống.
Cầm chiếc lá lên, mới thấy hết cái kỳ diệu của thiên nhiên. Từ ngoài rìa vào đến
cuống lá, màu sắc đậm hoặc nhạt dần: đỏ, vàng, tím, hồng…Đã thế cùng một cây,
mà mỗi lá lại có màu khác nhau. Những ngọn lá trông như những cánh hoa. Mỗi cây
là một cây hoa nở rộ. Nhìn lá rơi, Tụng vẫn tưởng như hoa rơi. Mỗi một ngày qua
đi, con đường, bãi cỏ, mái nhà đầy lên những lá trong lúc những tàn cây mỏng dần, để trơ ra những cành
khẳng khiu đan thành những ô nhỏ xiêu vẹo trên bầu trời màu đục, báo hiệu một mùa thu nữa sắp chấm dứt.
Thực ra, tình thân mà Tụng cảm nhận được là từ cảnh chứ không phải từ người. Con dốc,
tuy không bao nhiêu nhà, nhưng thiếu vẻ thân mật. Nhà nhà thường đóng cửa. Họa
hoằn lắm, về mùa hè, mới thấy một đôi người ra hóng mát, chơi đùa, trò chuyện ở
sân trước. Tuy thế, đi qua đi lại nhiều lần, rồi khi thì gặp người này, khi thì
gặp người kia, rốt cuộc hầu như nhà nào anh cũng biết. Lúc đầu, nhiều người gặp anh trông bộ
chẳng muốn chào, có lẽ vì thấy anh là người châu Á. Nhưng rồi, có lúc người ta
cũng chào, có lẽ vì lịch sự. Có khi có người còn dừng lại trao đổi năm ba câu về
mưa nắng, thời tiết. Gặp riết, chào riết cũng thành quen.
Ở đầu
con dốc là một cặp vợ chồng trẻ, hình như không có con, vì lúc nào anh cũng chỉ gặp có hai người. Kế đó là một cặp
vợ chồng già, sáng nào cũng dắt nhau đi bộ. Rồi đến một gia đình đông con. Tiếp
đó là một cặp vợ chồng và một đứa con. Ỡ
giữa con dốc là một căn nhà âm u, trông như bỏ hoang, thật ra vẫn có một ông
già lưng khòm thỉnh thoảng chống gậy đi vào đi ra một mình. Nhà kế nhà, tất cả
có đến trên hai mươi ngôi, ở cả hai bên đường, anh đều biết rõ. Cuối con dốc,
trước khi đến một cái cửa hàng nhỏ bán đồ tạp hóa có tên Honeyfarm, là một gia
đình Mỹ đen. Gia đình này sinh hoạt rộn rịp, vì trẻ con đông, bạn bè lui tới
thường xuyên. Nói chung thì, tuy gặp nhau, chào nhau như thế, nhưng cái vẻ xa lạ,
dửng dưng, lạnh lùng cứ như lơ lửng đâu đó, không thể tẩy xóa đi được. Anh và
cư dân trên con dốc vẫn là hai thế giới khác hẳn nhau.
*
Lưng chừng dốc, chênh chếch phía đối diện
với một cơ sở địa ốc là trạm xe buýt học sinh. Nói trạm cho vui, chứ thực ra, nơi đó chỉ có một tấm bảng nhỏ đề chữ School Bus Stop. Hàng ngày, chiếc xe buýt màu
vàng của trường dừng ngang dăm ba phút,
vào buổi sáng và buổi chiều, để bốc học sinh đến trường và trả học sinh về nhà. Đi lại hàng bao nhiêu lần ngang đó, anh chẳng để
ý gì đến cái địa điểm bình thường, quá bình thường này. Cho đến một hôm, hết giờ
học, thay vì vào thư viện như thường lệ, anh
lửng thửng đi tản bộ về nhà.
Tháng mười, mùa thu nhuộm chín núi rừng. Lúc
này là giờ bãi học. Từ dưới con dốc, anh nhìn thấy chiếc xe buýt ngừng ở trạm,
đổ học sinh xuống rồi chạy đi. Đám trẻ con xuống xe, đứa thì tung tăng chạy đùa
với lá, đuổi nhau lên đường đồi, đứa từ tốn ôm cặp về nhà. Khi anh đi ngang trạm,
đám học sinh đã về hết, chỉ còn một học sinh đứng đó. Một cô bé. Cô đứng dựa
vào thân cây sồi khá lớn nằm sát chân đồi, ngay dưới tấm bảng quảng cáo thuốc trị mập “mất 30 pounds trong 30 ngày.” Túi đựng
sách, cô để dưới chân. Hai chân cô vắt tréo lại. Hai tay vòng lên trên đầu. Anh
đi ngang, nhìn cô, mỉm cười chào. Dường như cô bé hơi mím môi, muốn cười hoặc
muốn nói một câu gì đáp lại lời chào của
anh, nhưng rồi cô không làm gì cả, đôi mắt nhìn về hướng khác. Đâu có sao, anh
nghĩ. Một cô bé, lại là cô bé Mỹ. Với cô, chắc chắn anh hoàn toàn xa lạ. Anh là
người lớn, là đàn ông. Lại thuộc một sắc dân khác. Anh quá quen thuộc với sự lạnh
lùng, dửng dưng của đám sinh viên da trắng trong trường đối với sinh viên da
màu như anh. Khoảng cách chủng tộc lớn lắm, mênh mông lắm, chỉ thu hẹp hoặc lấp
đầy trong rất hiếm trường hợp.
Anh đi một đoạn ngắn, quay nhìn lui. Cô bé vẫn
trong tư thế cũ, dường như bất động. Khi lên tới khoảng đường cong gần đỉnh đồi,
anh đứng lại, ngoái nhìn một lần nữa. Anh thấy cô bé đã rời chỗ cũ, băng qua đường,
cặp đeo trễ tràng bên vai, cái áo khoát cột ngang thắt lưng, hai tay áo đu đưa
theo nhịp bước. Cô đi theo một lối mòn nhỏ trên đồi, hòa dần vào màu lá, biến mất
sau rừng cây. Anh ngẩn ngơ nhìn hun hút vào mảng rừng phía trước, tưởng tượng bóng cô bé bước đi dưới mùa thu. Cô bé và lá. Không, khuôn mặt cô bé
và lá.
*
Khuôn mặt trẻ con thường giống nhau ở cái
nét ngây thơ, hồn hậu. Má phinh phính. Tóc lưa thưa. Nụ cười rạng ngời. Đôi mắt mở lớn như sẵn sàng thu nhận hết cả
thế giới vào hai ô cửa nho nhỏ của mình.
Nhưng cô bé này trông khác hẳn. Cô bé tên gì nhỉ? Cứ gọi là Cynthia đi
vì cô bé trông hao hao với con nhỏ Cynthia làm việc ở thư viện trường. Bao
nhiêu tuổi. Cỡ muời ba, mười bốn. Cô ắt phải học cấp hai, vì hầu hết đám học
sinh trên xe buýt cô đi đều khá lớn, có đứa trông như đã thiếu nữ. Nhìn cách cô
bé đứng dựa vào gốc cây, đôi mắt tối, lẩn quất đâu đó nỗi hoài nghi, đôi môi
như muốn cười, nhưng cố gượng gạo khép lại, anh bất giác rùng mình. Anything’s wrong with her, anh mơ hồ tự
hỏi.
Vài ngày sau, khi đi ngang vào giờ
xe buýt đỗ, anh lại bắt gặp cô bé. Hầu như vẫn cùng một thế đứng. Lần này, anh không chào nhưng nhìn cô, vẻ dò
hỏi. Cô bé, có lẽ đoán biết ý anh, nên quay mặt đi nơi khác. Khuôn mặt cô xa vắng, lạnh lùng, trông bộ dửng
dưng trước mọi sự đang diễn ra chung quanh. Anh
bước đi một đoạn, rồi dừng lại, nhìn lui. Cô bé vẫn còn đó. Anh lặng lẽ
đi dọc theo con dốc. Lên đến đỉnh dốc, ngang trước ngôi nhà của ông cụ lưng
khòm, anh nhìn lui lần nữa. Cô bé vẫn
còn đứng đó. Từ xa, trông cô gái như một hình thể bất động. Chiếc juýp xòe cùng
với chiếc áo khoát mùa thu sẫm màu như đẩy nhân dáng cô bé chìm hẳn vào rừng màu chung quanh. Trông
như một bức tranh thu, anh nghĩ. Lát sau, cô bé di động. Băng qua đường. Leo
lên lối mòn nhỏ. Một cơn gió tới. Lá rụng dào dạt. Lá xoắn xuýt đeo theo cô bé
đến khi cái nhân dáng nhỏ bé của cô gái khuất khỏi tầm nhìn, biến mất sau màu
lá.
Từ đó, suốt những ngày mùa thu còn lại,
anh áng chừng giờ xe buýt đổ để trở về. Thỉnh thoảng, anh đi vào lúc tảng sáng,
khi xe buýt đến đón học sinh. Buổi sáng, học sinh tụ lại một chỗ. Riêng cô bé vẫn
đứng riêng ra khỏi đám đông. Lúc đầu, anh đoán cô bé vẫn nghĩ là anh chỉ tình cờ
đi ngang. Nhưng dần dà, hình như cô bé biết rằng, anh muốn gặp cô, nhìn ngắm
cô. Trông cô hơi khó chịu. Vì anh bắt gặp một vài lần, cô liếc nhìn anh, nhíu
mày lại, vẻ bực bội. Nhưng chỉ một thoáng thôi, khuôn mặt cô trở lại y như cũ,
lạnh lùng, xa vắng. Có lẽ cô bé quên anh liền ngay lập tức, dù biết anh
đang đi ngang trước mặt cô, đang quan
sát cô, và có thể đang toan tính một điều gì đó. Riêng với anh, cô bé bỗng dưng trở thành một chút gì ấm
cúng, riêng tư chui vào đời sống mỏng manh của anh. Chút gì như ngọn lá vừa nảy
mầm, như búp măng non vừa lú. Tháng ngày trước mặt bỗng thúc dục bâng quơ. Yêu
chăng? Không rõ. Cô bé còn nhỏ quá. Lại là da trắng. Mọi thứ đều cách xa vời vợi.
Vậy thì là gì? Chẳng là gì cả. Anh thấy thích cô bé, thế thôi.
Một hôm, anh chợt có ý nghĩ đi theo cô bé, xem thử cô bé về đâu. Chiều
hôm đó, khi cô bé rời gốc cây, băng qua đường, thì từ trên lưng dốc, anh chậm rãi quay lại. Thay vì
theo cùng lối đi với cô bé, anh leo hẳn lên ngọn đồi, rôì từ phía trên, lần bước
theo một lối đi khác. Cô bé lửng thửng bước trên lối mòn đầy những viên đá nhỏ.
Thỉnh thoảng cô trợt chân, vịn tay vào một nhánh cây, rồi tiếp tục bước. Xuống hết đồi, bắt đầu ra đường lộ, không hiểu
sao, cô đứng lại, quay lui nhìn lên phía con dốc. Có lẽ cô ta muốn xem thử anh còn ở đó không?
À, thì ra, cô bé có nghĩ đến mình. Anh định
làm một tiếng động gì đó để gợi sự chú ý của cô, nhưng thôi. Anh đứng tựa vào gốc
cây, im lặng nhìn. Cô bé đi dọc theo lối đi một đoạn, đợi đèn giao thông, băng
ngang đường trở về nhà cô, chắc là ở một nơi nào đó dưới khu phố chính, nằm bên
cạnh công viên.
Hôm sau, theo lối cũ, anh lại đi theo cô
bé. Lần này, khi xuống hết đồi, cô bé quay lui và nhìn thấy anh. Làm như không
để ý, cô vẫn tiếp tục bước. Nhưng không hiểu sao, cô dừng lại, quay về hướng
anh, đưa một bàn tay lên, dứ dứ trong không trung. Cô bé muốn nói gì? Anh im lặng
quay về. Rồi cứ thế, ngày lại ngày, anh tiếp tục đi ngang con dốc, đợi nhìn cô
bé mà anh yên trí có cái tên Cynthia. Có lẽ cô bé không còn cái bối rối, bực bội của những ngày đầu khi biết có người chú ý đến mình. Cô bất chấp
anh. Mặc cho anh nhìn, anh đợi, anh đi theo, cô bé làm như không biết. Cô yên
tâm sống trong thế giới rất riêng nào đó, với vẻ mặt như càng ngày càng rời xa
mọi tình huống chung quanh. Cô bé bước đi, hoang đường, mộng mị. Anh cũng thế.
Anh đi qua con dốc trong hoang đường mộng mị. Hình ảnh cô bé đứng dựa gốc cây,
hai tay vòng trên đầu, chân đứng tréo lại
bây giờ trông như một bức tranh. Một bức tranh đắm đuối rừng thu.
Mùa thu qua đi rất nhanh. Khi những rừng
cây trụi lá, lập tức cái lạnh vùn vụt quay về. Tuyết đầu mùa rơi sớm hơn mọi
năm, ngay vào giữa tháng mười một. Suốt tháng mười hai và đầu tháng giêng, tháng
hai, tuyết dồn dập đổ xuống. Anh buộc phải dùng xe đi học. Con dốc của anh, tuyết
dồn đống đống hai bên. Đường trơn, trạm
xe buýt học sinh dời xuống một đoạn, nơi có khu đất tương đối bằng phẳng. Cây
chơ vơ. Người chơ vơ. Núi đồi chơ vơ. Con dốc hoang vắng khốc liệt.
Những ông cụ bà cụ biến mất sau những ngôi nhà tuyết phủ trắng xóa như những
ngôi mộ. Ai đã chết đi? Ai còn sống? Con
dốc thân thương của anh hầu như biến mất. Anh sống trong một mùa đông bàng
hoàng vì cô bé biến mất y như thể tuyết
đã chôn vùi cô ở một chỗ nào đó. Gốc cây sồi vô hồn. Như đã hóa thạch ngàn năm.
Đến tháng ba, các đợt tuyết cách quãng dần. Những cụm tuyết bên đường tan đi, thấp xuống, rồi biến mất. Mùa xuân trở lại. Có nghĩa là cô bé trở lại.
*
Và cô bé trở lại thật!
Sau mùa tuyết, trạm xe buýt dời về chỗ cũ.
Ở đó, dưới ánh nắng tươi mới, anh lại nhìn thấy cô bé. Cái áo choàng nhiều màu khiến cô bé có vẻ vui
lên. Mà cô dường như vui thật. Khác hẳn dung nhan hồi mùa thu. Nét mặt cô sáng
lên trong nắng, mất đi cái vẻ ủ dột bất thường ngày nào. Đôi má phúng phính hồng.
Tia nhìn reo vui. Khi anh đi ngang, cô
ném về anh một cái nhìn, như chào. Anh lẩm bẩm “How are you doing, little
girl?” Lên một đoạn, anh dừng lại nhìn lui. Thay vì đứng dựa gốc sồi, lần này,
cô bé tung tăng chạy theo đám bạn học đi xuống, biến mất dưới con dốc. Hôm sau,
cũng thế. Hôm sau nữa, cũng thế. Xuống
xe buýt, cô bé hòa nhập vào đám bạn, đi về. À, thì ra, cô bé không còn thích đứng
dưới cây sồi nữa. Cô đã thay đổi. Và anh ngẩn ngơ. Anh tưởng như mình vừa mất đi một cái gì vô
cùng quý giá, vô cùng trọng đại. Đúng rồi, cô không còn là của anh nữa. Anh mất
cô. Dù vậy, ngày lại ngày, anh vẫn gắng gượng trở về đúng giờ để nhìn cô bé với
hy vọng cô sẽ trở lại đứng dưới gốc cây sồi như cũ.
Một hôm, anh không trông thấy cô bé.
Hôm sau, anh không trông thấy cô bé.
Hôm sau nữa, cũng chẳng thấy cô.
Cô bé biến mất. Đứng trên con dốc nhìn xuống
đám học trò tung tăng ra về, Tụng bâng khuâng, bối rối với ý nghĩ rằng anh sẽ
không bao giờ tìm thấy lại cô bé nữa. Đợi cho đám học trò biến hẳn dưới chân dốc,
anh lửng thửng quay về nhà, lòng trống vắng. Khi vừa đến cổng, anh ngạc nhiên
khi nhìn thấy ba chiếc xe cảnh sát đậu kế nhau, bít hẵn lối vào nhà trọ. Thấy anh về, một viên cảnh sát cao to ra dấu
cho anh dừng lại, hỏi giấy tờ, rồi báo cho anh biết anh bị bắt. Một viên cảnh sát khác nhanh nhẹn còng tay
anh lại, dẫn anh vào nhà. Anh ta buộc anh ngồi im trên ghế trong lúc những người
kia lục lọi khắp nhà. Tất cả sách vở, đồ đạc bị xáo tung lên. Mọi ngóc ngách
trong nhà đều bị rọi đèn xem xét. Họ chẳng tìm thấy gì. Cuối cùng, họ dẫn anh
ra xe, chở về sở cảnh sát. Anh hoang mang, không hiểu vì sao mình bị bắt, cho đến
khi cuộc thẩm vấn bắt đầu. Thì ra, anh bị tình nghi dính líu đến một cô bé học
sinh 13 tuổi bị mất tích mấy ngày nay. Đúng là Cynthia của anh! Không, không phải là Cynthia. Mà là Maria
Zone. Anh bị trực tiếp hỏi cung cũng như khai báo hai ngày liên tiếp.
Tảng
sáng ngày thứ ba, anh được thả ra với lời
xin lỗi của viên cảnh sát trưởng toán thẩm vấn.
Anh ngạc nhiên. Thay vì giải thích lý do cho anh, người cảnh sát chìa
cho anh tờ nhật báo mới nhất, chỉ cho anh bản tin quan trọng in ngay trang đầu:
Một Vụ Dụ Dỗ Gái Vị Thành Niên Qua
Internet. Cô Bé Maria Zone Đã Bỏ Nhà Trốn
Đi Với Một Người Đàn Ông. Anh giật thót người. Thế là cô bé đã bỏ đi. Bản tin
cho hay: Maria Zone, học sinh lớp 8 trường
Stoneland, sau khi rời xe buýt nhà trường, thay vì về nhà như thường lệ,
đã đi thẳng luôn. Sau ba ngày điều tra, cảnh sát đã xác định được tung tích của người đàn ông dụ dỗ cô bé có tên là James
Clark, 25 tuổi, mà Maria quen qua Internet hơn một năm qua. Mẹ của Clark cho biết
anh ta là một tay ghiền máy vi tính hạng nặng. Hầu hết thì giờ rảnh rang trong
ngày, anh ta chúi mũi vào màn hình. Gia
đình Maria cho biết, cô bé cũng cắm cúi trên màn hình hằng đêm. Hiện mọi ngã đường,
trạm xăng, khách sạn, motel, quán ăn… đều được thông báo về nhân dáng của cả
hai để mọi người dễ nhận diện. Một đường dây điện thoại ưu tiên được thiết lập
riêng cho việc tìm kiến tung tích cặp tình nhân.
Đọc
xong mẩu tin, Tụng xếp tờ báo lại, nhìn vọng về khu núi đồi, nơi có con dốc băng ngang, kêu lên nho nhỏ: Cynthia,
Cynthia! Rồi anh lặng lẽ leo lên chiếc
xe cảnh sát dành riêng để đưa anh về nhà. Đến đoạn đường bắt đầu lên dốc, anh
xin xuống xe. Viên cảnh sát nhắc lại lời xin lỗi. Anh chỉ con dốc, cười: “chỉ tại
con dốc này.” Người cảnh sát cười mà không chắc đã hiểu hết ý anh. Đợi cho chiếc
xe chạy đi, anh lặng lẽ leo dốc. Nắng mùa xuân rực rỡ đổ xuống núi đồi. Chỉ
toàn nắng là nắng, vì mới đầu xuân, cây cối chưa kịp trổ lá. Con dốc trống
hoang, trống hoác và vô tình một cách lạ thường. Đến gốc cây sồi, anh dừng lại.
Anh bắt chước cô bé, đứng dựa vào gốc cây, hai chân bắt tréo, hai tay vòng lên
đầu, nhìn quanh.
Có
lẽ, từ nơi này, cô bé đã tưởng tượng, đã mơ mộng, đã vẽ vời ra những hình ảnh ước
mơ của riêng cô. Có lẽ từ nơi này, cô đã buồn, đã vui, đã xao xuyến, đã lo lắng,
đã chờ đợi. Cũng có lẽ từ nơi này, cô đã toan tính, một toan tính người lớn rất
trẻ con. Từ nơi này, cô bé đã gặp anh,
có lẽ cũng chẳng khác gì bắt gặp một chiếc lá trong hàng ngàn chiếc lá vô tình
rơi ngang trước mặt cô. Bây giờ, cô bé
đang sống cái thế giới của cô. Anh cố tưởng
tượng là cô đang hạnh phúc. Thứ hạnh phúc của
đứa trẻ con được cầm trong tay một món đồ chơi mới toanh, mày mò tìm
cách xử dụng nó. Riêng anh, món đồ chơi đó khiến anh bùi ngùi. Rất vô cớ.
*
Ngày 10/4
Cư
dân nhiều khu vực trong tiểu bang gọi về cảnh sát cho biết đã tìm thấy dấu vết
của đôi tình nhân ở nhiều nơi khác nhau.
Một người đàn ông ở Parson cho biết đã nhìn thấy họ rời một quán ăn Tàu
trên đường 18. Một người khác ở Holden
cho hay họ đã nhìn thấy chiếc xe thể thao màu đỏ ở trên có đôi tình nhân, chạy
ngang qua khu rừng Tourine lúc chập tối hôm qua. Một người khác nữa quả quyết thấy tận mặt đôi tình nhân đi dạo ở downtown, thị trấn
Eden.
*
Ngày
11/4
Cảnh
sát tìm thấy trong khu rừng thưa gần hồ Webster một cái lều nhỏ với một số đồ vật
vương vãi chứng tỏ có người vừa rời đi một
vài giờ trước đó. Có thể là cặp tình
nhân Zone-Clark đã ở đây. Cuộc tìm kiếm
vẫn tiếp tục trên nhiều khu vực khác nhau.
*
Ngày
12/4
Xác
một bé gái tìm thấy ở một hồ bơi công cộng kế khu nghĩ mát Wachusett.
Cư dân địa phương không ai nhận đó là thân nhân của mình. Cảnh sát đang giảo nghiệm để xác định lai lịch
nạn nhân xem thử đó có phải là Maria Zone không?
*
Ngày
13/4
Tung
tích cặp tình nhân vẫn bặt tăm.
*
Ngày
14/4
Phỏng
vấn bố mẹ của Maria Zone. Bà mẹ cho biết
Zone là một cô bé rất ngoan, học hành chăm chỉ, không mấy khi trái lời cha mẹ. Điểm học khá tốt. Zone mới bắt đầu xử dụng Internet chừng một
năm trở lại. Trước đó, cô ít khi đụng tới
computer. Những ngày trước khi cô bỏ đi,
cô trông vẫn bình thường, không có dấu hiệu rối loạn tâm lý nào. Sáng sớm ngày cô bỏ điù, trước khi đi học, cô
còn chạy lại hôn bố mẹ một cách vui vẻ.
Cuộc
điều tra tổng hợp của cảnh sát, nhân viên sở xã hội cũng như giáo viên lớp cho
thấy không có dấu hiệu hành hạ trẻ con (child abuse) hay rối loạn gia đình
(domestic violence) trong gia đình Maria Zone.
*
Ngày
15/4
Lai
lịch của James Clark, người đàn ông đang bị truy nã vì tội dụ dỗ gái vị thành
niên. Anh ta tốt nghiệp college ngành kế
toán, nhưng không chịu kiếm việc làm.
Không có dấu hiệu nào khác thường , ngoài tật nghiện computer. Suốt ngày đêm, anh ta ôm cái computer, quên cả
ăn. Rất ít bạn bè. Hiếm có bạn đến nhà. Mọi liên lạc đều trao đổi qua Internet. Không thấy có bạn gái.
*
Ngày
16/4
Cuộc
tìm kiếm cặp tình nhân diễn ra nhiều nơi.
Cảnh sát tiểu bang yêu cầu hai bang láng giềng giúp đỡ bằng cách tuần tiễu
thường xuyên trên đường ranh tiểu bang.
*
Ngày
16/4
Không
có dấu hiệu lạc quan nào. Cặp tình nhân
vẫn biệt mù tăm cá.
*
Đến ngày 17/4, các báo địa phương ngưng
loan tin về Maria Zone. Thay vào đó là các hot
news khác: hai anh em vị thành niên
đồng lõa giết chết cả cha lẫn mẹ; một đường
giây buôn lậu ma túy bị khám phá; một đại
úy hải quân bị bắt vì tội oa trữ vũ khí cho bọn buôn lậu vũ khí bất hợp
pháp; hai ông bà già bị cháu nội tố cáo
quấy nhiễu tình dục …
Mãi
cho đến ngày 28 tháng 7, mới có thêm một mẩu tin về Maria Zone:
Cảnh
sát vừa bắt giữ một chiếc xe thể thao màu đỏ, trên đó có một người đàn ông và một
cô gái vị thành niên. Xe chạy trên một lối đi băng ngang khu rừng
Grove vắng vẻ lúc chập tối. Người ta tưởng
rằng đã tìm thấy cặp tình nhân Clark-Zone.
Nhưng hóa ra không phải. Đó là
hai anh em ruột, cư ngụ ở bang kế bên.
*
Từ đó về sau, tin tức về vụ Maria Zone biến
mất hẳn trên các báo địa phương. Cặp tình nhân
ở đâu, không ai biết. Cảnh sát có tiếp tục tìm kiếm hay không, không ai
hay. Gia đình cô bé bây giờ ra sao, không ai rõ. Xã hội luôn luôn có những tin tức mới nóng sốt
hàng ngày, chôn vùi đi – có khi chôn vùi vĩnh viễn – những tin tức đã trở thành
cũ, trở thành nhàm chán.
Riêng Tụng, mùa hè năm đó, hình như anh cũng
quên hẳn cô bé Cynthia của anh. Anh vẫn đi lại trên con dốc, cái dốc núi thân
yêu, mà có phần chắc sẽ là một chặng êm đềm hiếm có trong cuộc đời anh.
Cứ thế, sau mùa hè sẽ là mùa thu.
Và Tụng đợi mùa thu đến!
Trần
Doãn Nho
(nhuận
sắc 6/2018)
__________________________
(*) Tựa đề nguyên thủy:
Phố núi