(Truyện
viết ở hải ngoại)
Khi
tôi ló mặt vào phòng, thì tiếng hát Happy birthday to you happy birthday to you
cùng tiếng vỗ tay đồng loạt trổi dậy. Tôi nghe cả giọng ca ồ ồ của ông Marty
xen lẫn giọng ca thánh thót của nàng Nancy, nàng Virginia…
Thì
ra hôm nay là ngày tôi ra đời. Và cả nhóm đã dành cho tôi một kinh ngạc. Chiếc
bánh kem màu trắng. Tên họ tôi màu xanh. Và năm ngọn đèn cầy chờ tôi đốt. Tôi rối
rít nói cám ơn. Rồi bật lửa. Những ngón tay tôi run. Do từ vết thương cũ từ một
chiến trường xa lắc xa lơ nào đó. Rồi tôi đốt từng ngọn nến. Rồi thổi phù phù
cho một cơn phù du trong chợp mắt… Sau đó, tôi lấy dao cắt bánh. Bỏ từng miếng
vào dĩa giấy rồi mời từng đứa. Thì ra hôm nay con người như tôi lại giá trị đến
độ như vậy sao. Happy birthday. Họ bắt tay chúc mừng. Thêm một tuổi già hay
thêm một năm bị thời gian cướp mất. Họ đâu có biết tận cùng sâu thẩm của tâm hồn
tôi. Họ đâu có biết nguồn gốc lai lịch khai sinh căn cước của tôi. Họ chúc mừng
bởi vì đời vui lắm, hạnh phúc lắm. Tôi cũng làm bộ cảm kích, vui lắm, hạnh phúc
vô cùng. Thì cứ thử xem hôm nay là ngày tôi chào đời đi, để chào mừng cuộc đời.
Cứ đóng kịch, cám ơn lia lịa, làm bộ tỏ ra ngạc nhiên và xúc động trước những
ân tình của người bản xứ.
Vâng.
Cám ơn. Cám ơn xứ sở này cho ta một nơi dung thân. Cám ơn hãng này đã mướn ta
trên mười hai năm mà không gạt ta ra ngoài theo cái định luật cung cầu của
business. Cám ơn cái bằng cấp để ta còn viết vào vào hồ sơ xin việc. Và một lời
cám ơn cuối cùng. Cám ơn Trời Ðất đã gìn giữ ta, cho ta còn sống sót, để viên đạn
xẹt vào đầu vú ta, thay vì trái tim ta, để trái lựu đạn nào đó mà thằng nhỏ mười
một mười hai tuổi quăng vào chạy lăn lóc, không nổ, hay cái lẫy cò cứng ngắc
khi ta chỉa mũi súng vào lưng thằng lính mà bóp cò khi nó không chịu tiến tới…
Cám ơn mấy chục lần ta chạy có cờ, kêu anh cảnh vệ ơi, tôi đi cầu. Ð. M mày, đi
ỉa thì đi, mắc mớ gì kêu ông. Cám ơn biển mặn không đón ta, ôm ta, ru ta vào
lòng, hay bão tố không bứng ta lên cùng mây trắng. Cám ơn hơi thở tiếp tục triệu
ức tỉ tỉ tỉ tỉ lần, cho nhịp tim cứ đập tỉ tỉ tỉ tỉ lần…Cám ơn đời sống này dù
mắt đã bắt đầu mờ, da bắt đầu nhăn, trí nhớ đã bắt đầu kém, tay đã bắt đầu run…
oOo
Tôi
trở lại phòng. Cái ghế dựa. Chiếc bàn. Những ngăn đựng hồ sơ, tài liệu, sách vở.
Màn ảnh màu xanh. Máy computer. Ðiện thoại. Như vậy, tôi đã chia xẻ cùng chúng
đã hơn 12 năm dài. Không buồn. Không vui. Không gì hết. Ngoài cửa kính, mùa
đông xám xệt bầu trời, trơ trụi những thân cây đen thẩm. Xa xa là những ngọn đồi
mờ nhạt. Những con quạ đen hiện ẩn trên nhành khô. Ðất trời đó, vũ trụ đó, nhân
loại đó, hôm nay tôi lại được có mặt thêm một năm, cho vui cửa vui nhà, vui
ngày vui tháng. Nhưng cớ sao tôi lại nhắm mắt, lòng như thể rưng rưng…
Vâng,
tôi vẫn còn sống, và sống vui, sống mạnh, sống như thể một cơn mơ. Còn đòi hỏi
gì nữa khi tự dưng có một tên trôi sông lạc chợ từ bên kia bán cầu lại có mặt tại
xứ thiên đàng này để người ta tổ chức ăn mừng. Còn đòi hỏi gì hơn khi một tên
vô sản chánh gốc, không nhà, không cửa, đạp xe thồ, bán cà rem dạo, nay đang
gia nhập vào trong một thế giới mà người ta gọi là chuyên gia. Ðó có phải là giấc
mơ mà bất cứ ai ai cũng ước muốn hay sao. Nhưng tôi biết, tôi không thể nào
quên. Bởi ngoài kia, ngọn đồi mỗi ngày tôi nhìn, để hiểu tại sao tôi lại vẫn
còn sống đây, vẫn còn tiếp tục hưởng những đặc ân của Thượng Ðế.
oOo
Khi
chúng tôi chiếm được cao điểm, và báo cáo với đại bàng là hang đá quá nhiều
không thể biết nơi nào địch trú ẩn, thì địch bắt đầu đồng loạt khai hỏa. Hai khẩu
đại liên ở hai bên sườn núi quạt xuống trung đội ba và trung đội chỉ huy đang bị
mắc kẹt dưới thung lũng. Rồi ở dưới chân tôi, tự dưng một quả lựu đạn được
quăng lên. Người lính truyền tin hét lên: ” Lựu đạn. Ông thầy!”, rồi xô tôi xuống
một vực sâu đầy bụi gai. Tôi té nhào. Những miểng gan đã găm đầy vào thân thể
tôi, cả hai ống chân, và cả mông. Thằng mang máy bị sức nổ làm bắn lên không và
cũng rơi xuống vực cạnh tôi. Cả mặt mày nó nhuộm đầy máu.
Ðó
là một con thác khô, mà những hòn đá bóng đen chất chồng, lẫn trong gai, bụi um
tùm. Thằng Tám còn đi được. Hắn dìu tôi từng bước. Hơi thở nó hổn hển. Máy truyền
tin đã không còn xữ dụng được nữa. Trên vai hắn vẫn còn tòn teng khẩu M16. Tôi
nhắm mắt buông xuôi. Ðau mà không dám rên. Hận mà không dám thét. Súng vẫn nổ
loạn cuồng, chát chúa. Rồi chúng tôi xuống bãi đất trống ở triền đồi, nơi trung
đội ba và bốn bị kẹt. Tám không còn dìu tôi nữa. Hắn cõng tôi chạy qua khoảng xạ
trường. Chừng như trên đồi, sau lưng chúng tôi, địch chỉ chờ bấy nhiêu. Ðạn lại
bắn xuống như mưa rào. Tôi cũng bị trúng đạn. Tám cũng bị trúng đạn. Hai thầy
trò ngã qụi xuống bãi. Tuy vậy, tôi có thể trườn tới một mô đất và nép mình.
Còn Tám thì không thể cục cựa. Hắn kêu tôi giúp. Nhưng mỗi lần ló ra là mỗi lần
đạn từ trên cao trút xuống. Tôi đưa đầu súng về hướng hắn, kêu hắn cầm chặc, rồi
kéo về phía mình. Thân thể hắn bự con nên tôi khốn khổ lắm mới nhích đi từng tấc
một. Ðạn sủi bọt, và toé lửa khi chạm vào những mô đá. Thêm một viên đạn nữa bắn
trúng hắn. Hắn ngước đôi mắt nhìn tôi, nói tuyệt vọng: “Em lại bị thêm một viên
nữa rồi ông thầy.” Tôi gào lên: “Tám nghe lời tao, mày phải sống. Rán bò tới chỗ
này mà núp. Nghe không”. Tôi vừa gào, vừa kéo. Nhưng tôi bất lực. Tôi cũng như
hắn. Tuyệt vọng tột cùng. Bỗng nhiên hắn giục tôi: “Ông thầy gắng bò xuống đi.
Em sẽ tự lo cho em cũng được. Rán bò khỏi chỗ này. Mau lên ông thầy”. Tôi nhìn
hắn mà khóc. Hắn đã hy sinh cho tôi. Và giờ phút này, hắn lại thêm một lần muốn
tôi được sống. Tôi lại hét trong nước mắt:”Tám, em nghe anh không, em phải sống.
Phải gắng tìm chỗ ẩn, đừng nằm chỗ trống trãi như vậy. Tám, anh thương em.
Chúng mình đã sống chết bên nhau bao năm rồi.” Hắn gật đầu. “Ðược, em sẽ cố.
Ông thầy đừng bận tâm gì về em. Chúc ông thầy bình an…”.
Tôi
đã nghe lời thằng lính truyền tin của tôi. Tôi vẫn còn muốn sống, vẫn còn hèn
nhát để nghĩ đến bản thân mình. Tôi đã dùng hai tay trườn, bươn qua những lùm
gai, những bụi dứa. Cả hai bắp đùi tôi bị nát vì miểng đạn. Bả vai tôi thêm một
viên đạn xuyên ngang. Tôi đã tự biện hộ cho mình. Rằng tôi đã bất lực. Như đại
bàng đã bất lực. Trung đội ba, trung đội bốn đã bất lực. Nhưng lương tâm của
tôi vẫn bất an. Cuối cùng, ai cũng muốn sống. Có nghĩa là tôi đã tìm mọi cách để
xa bãi chiến. Càng xa càng tốt.
Vâng.
Càng lúc tôi càng xa dần bãi chiến. Xa đến độ không thể ngờ. Nhưng chắc gì tôi
lại xa ngọn đồi như một dấu tích một thời. Tôi nói với thế giới này là tôi được
may mắn, được phép lạ. Qua cuộc chiến tranh. Qua tù tội. Qua vượt biển. Tôi nói
là sau cơn bĩ cực đến hồi thới lai. Nhưng tôi biết tôi đã dối lòng mình. Nếu
không có thằng Tám Ðen hay một viên thuốc màu chocolat mà người bạn tù đã tặng
tôi trong cơn dịch kinh hoàng trong trại khổ sai, thì làm gì tôi còn ngồi lại
đây để má cắt bánh, mà tung hô cuộc đời ?
Ông
thầy còn nhớ em không? Em là Nguyễn văn Tám tự Tám Ðen, hạ sĩ mang máy của
trung đội ông thầy. Sau khi ông thầy rời khỏi đại đội, em được bổ sung về tiểu
đoàn 2. Em bị thương tại Ðức Cơ. Hai chân em bị cưa. Ðến tháng tư 75 họ về đuổi
em ra khỏi quân y viện trong khi hai chân em da vẫn chưa lành còn cả máu và mủ.
Em không được phép lấy bất cứ cái gì kể cả chiếc xe lăn. Em phải dùng hai tay để
làm chân, lấy vải bao cát bó lên hai khúc chân chưa lành để về quê dưới Bình Ðịnh.
May mà có nhiều người cảm thương hoàn cảnh nên em còn có một vé xe đò, nếu
không em chắc bỏ xác dọc đường. Cả năm em không có thuốc men để điều trị. Cứ mỗi
lần trở trời thì nó hành em chỉ biết cắn răng mà khóc. Hai đứa con em thì về
Qui Nhơn đi bới rác tìm bao ny lông mà đấp đổi qua ngày. Em muốn chết mà không
dám chết. Mỗi ngày em đi bằng hai cái đòn, ra ngoài chòi nhìn về phía Bà Di mà
nước mắt cứ chảy dài. Em nhớ đến lúc ông thầy ăn cơm chung với em với canh lá
giang nấu với thịt quân tiếp vụ. Phải chi viên đạn trúng tim em thì em đỡ khổ
như bây giờ. Suốt cả năm làng xã làm khó dễ, nhiều khi họ bắt em đi trình diện
cả mấy cây số, mà em thì đi làm sao được. Ráng đến nơi thì em xỉu. Máu từ hai
khúc chân lại chảy ra cả mủ xanh thúi không chịu nổi. Sau đó em đành phải bỏ
quê mà đi ăn xin ở dọc theo đường xe lửa, ngủ nhờ ở mấy nhà ga xép, ăn nhờ miếng
cơm bố thí… Em gặp rất nhiều Việt kiều về thăm nhà. Một bửa ăn của họ có thể
nuôi cuộc đời tàn phế của em suốt đời. Họ xài tiền như rác. Họ ngủ ở khách sạn,
mỗi đêm cả trăm đô la. Họ đi nhảy đầm ở nhà hàng nổi giá cả trăm đô la. Phải
chi họ thương hoàn cảnh một đồng đội cũ của họ, ban cho em một chiếc xe lăn, để
em còn đi bán thuốc lá bán báo cho đỡ nhục nhã hơn cái nghề ăn mày ăn xin này…
Em
xin gởi cho ông thầy tấm hình của em. Chiến tranh trang điểm sắc đẹp mà, ông thầy
!
TRẦN HOÀI THƯ