Trần
Hoài Thư
KHI NHỚ VỀ BÀ GI
Đồi
Bà Gi, theo trí nhớ 1967-1970. Tháp cao nhất là tháp Vàng, nơi đặt đài ra đa của
quân đội Mỹ. Tháp giữa là tháp Bạc, để trống. Tháp dưới cùng là tháp Đồng, nơi
làm kho đạn dược vũ khí của đại đội 405 thám kích. Một chòi canh bên cạnh tháp
Bạc. Doanh trại là mấy dãy nhà tole dựng trên một sân bằng phẳng giữa mỏm
đồi. Bao quanh đồi từ đỉnh xuống chân là là hàng rào kẻm gai mấy lớp. Dù
là hậu cứ nhưng chúng tôi rất ít có mặt, Bởi hành quân tăng phái liên miên. Nó
chỉ dành cho ban quân số, tài chánh và một câu lạc bộ của đơn vị.
Cám
ơn chiến tranh đã tặng tôi một dinh cơ
Mái nhà là bầu trời đầy sao, vách tường là gạch tầng hùng vĩ
Mái nhà là bầu trời đầy sao, vách tường là gạch tầng hùng vĩ
(1)
Bầu trời đầy sao giúp
tôi trở thành thi sĩ
Mộ bia bao quanh giúp tôi bầu bạn với âm hồn
Gần bốn năm trời núp dưới bóng tháp Chàm
Không tu nhưng được làm ông từ giữ tháp
Mộ bia bao quanh giúp tôi bầu bạn với âm hồn
Gần bốn năm trời núp dưới bóng tháp Chàm
Không tu nhưng được làm ông từ giữ tháp
Có lần tôi kêu
lính ở chòi canh bắn vào bánh xe cảnh cáo
Khi thằng Mỹ ở trên đỉnh đồi mang gái qua đêm
Khi thằng Mỹ ở trên đỉnh đồi mang gái qua đêm
Cám ơn chiến tranh
đưa đẩy tôi về ở với ma chiêm
Để một tháp người thêm vào ba tháp chàm cô quạnh
Để cùng khóc cho một quê hương bất hạnh
Xưa Chiêm Thành nay là cả miền Nam !
Để một tháp người thêm vào ba tháp chàm cô quạnh
Để cùng khóc cho một quê hương bất hạnh
Xưa Chiêm Thành nay là cả miền Nam !
(2)
Tôi chẳng ham gì lính
tráng
Nhưng thời thế đẩy đưa tôi đến với tháp Hời
Suốt gần bốn năm trời núp dưới ngọn đỉnh trời
Tôi cũng hóa thân thành tháp lúc nào không biết
Tháp Chàm khóc cho thưở vàng son đã chết
Còn tháp tôi thì cho cả một trái tim đau
Tháp có thành Đồ Bàn chôn dưới mộ sâu
Tôi chỉ có thơ làm bàn thờ để mà xông trầm đốt khói
Nhưng thời thế đẩy đưa tôi đến với tháp Hời
Suốt gần bốn năm trời núp dưới ngọn đỉnh trời
Tôi cũng hóa thân thành tháp lúc nào không biết
Tháp Chàm khóc cho thưở vàng son đã chết
Còn tháp tôi thì cho cả một trái tim đau
Tháp có thành Đồ Bàn chôn dưới mộ sâu
Tôi chỉ có thơ làm bàn thờ để mà xông trầm đốt khói
Thì cứ kết tội tôi là
tên thám kích
Cứ tha hồ đấu tố hỡi nhân dân
Tôi đứng đây, lưng vẫn thằng chẳng còm
Vẫn khinh mạn vẫn ngẩng đầu thách thức
Thơ tôi đây, viết bằng cục than trên vách
Vẫn còn in đậm mãi mãi đến hôm nay… (1)
Cứ tha hồ đấu tố hỡi nhân dân
Tôi đứng đây, lưng vẫn thằng chẳng còm
Vẫn khinh mạn vẫn ngẩng đầu thách thức
Thơ tôi đây, viết bằng cục than trên vách
Vẫn còn in đậm mãi mãi đến hôm nay… (1)
(1)
trich nhật ký hành quân:
1200 H. NGÀY N.
Hầm
nhiều không thể tả. Ở đây, mới thấy được cảnh thương tâm của quê hương. Không
còn gì nữa. Nhà ngói chỉ còn nền và hầm trú ẩn. Nhớ lại những lần cùng mẹ trốn
dưới hầm trong những ngày kháng chiến. Mẹ ôm mình thật chặt. Nước mắt mẹ thấm cả
má. Mẹ vừa ôm vừa đọc kinh. Bây giờ cũng vậy. Thôi đừng nghĩ nữa, bảo lính bố
trí. Hầm nhiều lắm. Một thằng la lên: “Còn cơm nóng. Bọn nó vừa đi hồi sáng,
thiếu úy.” Mình đi vào nhà, nằm lăn trên nền. Chỉ muốn nằm dài trên nền, chỉ muốn
nhìn quê hương mà khóc. Chỉ muốn lau những đám bụi dầy đóng trên lư nhang. Một
tượng Phật bị đạn soi lủng thân thể. Chiến tranh không chừa một ai.
Mình đi tìm một viên
than, vào viết trên vách một câu thơ:
Khi con về quê hương
chừng đã ngủ,
Giấc ngủ ngàn đời trong tuổi đạn bom
Ru nước mắt, con cúi đầu nhận lỗi
Mẹ Việt-Nam, mẹ đã mất hay còn?
Giấc ngủ ngàn đời trong tuổi đạn bom
Ru nước mắt, con cúi đầu nhận lỗi
Mẹ Việt-Nam, mẹ đã mất hay còn?
(ngày đột kích H.L.)
(Văn 100 & 101)
(Văn 100 & 101)
( trich Truyện ngắn thời chiến của THT, Thư
Ấn quán xb năm 2018)