Trương Vũ – Photo by PCH - 2015
Tặng những nhà văn Việt Nam
Lời
Mở:
Đầu
tháng 7, 2016, trong một chuyến đi chơi Châu Âu, tôi đến thăm thủ đô Prague của
Cộng Hòa Tiệp (The Czech Republic). Khi
đến công trường Wenceslas, tôi nhìn lên bao lơn của tòa cao ốc Melantrich. Nơi
đó, một ngày mùa đông 1989, Alexander Dubcek và Vaclav Havel đứng cạnh nhau,
ngỏ lời với gần một triệu người dân Prague đang tụ họp ở công trường này, khởi
động một cuộc cách mạng làm sụp đổ hoàn toàn chế độ Cộng sản và xây dựng một xã
hội dân chủ thực sự cho Tiệp Khắc. Một cuộc cách mạng bắt nguồn từ những vận
động của giới trí thức và văn nghệ sĩ, khởi đi từ đầu thập niên 1955, không
ngừng thách thức với mọi đàn áp của giới cầm quyền. Những biến động ở công trường Wenceslas và
trên toàn đất nước Tiệp Khắc đã gợi hứng cho tôi viết một tiếu luận ngắn, nhan
đề “Mùa Đông Prague”, đăng trên tạp chí Văn Học ở California. Lúc đó, những vận
động được biểu dương ở công trường Wenceslas chưa hoàn toàn thành công để trở
thành cuộc “Cách Mạng Nhung” (The Velvet Revolution) của Tiệp Khắc. Lúc đó,
kịch tác gia Vaclav Havel chưa trở thành Tổng thống đầu tiên của một nước Tiệp
Khắc dân chủ sau thế chiến.
Gần
hai mươi bảy năm đã trôi qua. Đã có biết bao đổi thay trên toàn cầu, bao đổi
thay trên đất nước Tiệp Khắc. Có cả những đổi thay mà thoạt đầu người dân Tiệp
Khắc không muốn có, như sự kiện đất nước bị tách làm đôi, thành hai nước độc
lập, Cộng hòa Tiệp và Cộng hòa Slovakia. Ngày nay, cả hai đều là thành viên của
Liên hiệp Âu châu (EU) và của khối Liên minh Quân sự Bắc Đại tây dương (NATO).
Tuy tách làm đôi, liên hệ giửa họ luôn tốt đẹp. Ngày nay, Alexander Dubcek và Vaclav Havel đều đã ra người thiên cổ.
Trong
những ngày ở Tiệp, tôi cảm nhận được một sức sống mạnh và trẻ trung trên đất
nước này. Người dân có mức sống cao, trình độ văn hóa cao, tôn trọng một cách
tự nhiên những giá trị căn bản của con người như tự do và bình đẵng. Hầu hết
những người dân bình thường tôi gặp đều nói tiếng Anh khá lưu loát, và dầu đất
nước này vẫn có một sắc thái riêng của họ, tôi không có cảm giác lạc lỏng như
khi đến thăm Moscow hay Bắc Kinh. Và, ở Tiệp ngày nay, nếu không có chút hiểu
biết về lịch sứ, tôi sẽ không thể nào tin rằng dân tộc đó đã từng hơn bốn mươi
năm sống cô lập sau bức màn sắt, chịu áp đặt một chủ nghĩa xã hội rất thiếu
nhân bản, chịu sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị và quân sự của Liên Xô, và
chỉ mới tách rời khỏi những ảnh hưởng đó chưa tới 27 năm.
Trong
mấy ngày ở Tiệp, tôi có đến thăm khu thương mãi Sapa của cộng đồng người Việt ở
đây. Khu thương mãi khá lớn. Buôn bán nhộn nhịp. Nhà cửa, hàng quán, và cách
buôn bán ở đây làm gợi nhớ đến một số khu buôn bán ở Việt Nam ngày nào. Đang ở
một đất nước bên trời Tây, nói toàn tiếng Tiệp hay tiếng Anh, vào đây như vào
một thế giới khác, thấy như trở về đất nước cũ. Rất xúc động. Đặc biệt, khi trò
chuyện với một số đồng bào, được biết đa số sang Tiệp theo các chương trình
xuất khẩu lao động, sống khá vất vả, thu nhập rất thấp so với thu nhập của
người Tiệp trung bình. Tuy vậy, số người Việt tìm cách sang làm lao động vẫn
tiếp tục. Điều đáng mừng, theo phóng sự của một số báo chí Tiệp, trẻ em Việt
nam đa số học giỏi và hội nhập vào xã hội Tiệp khá dễ dàng.
Nhìn
lại một số đổi thay chính trị lớn, tôi nghiệm ra một điều: nơi nào có sư tham
dự tích cực của giới trí thức và văn nghệ sĩ yêu nước, yêu sự sống, tôn trọng
sự khác biệt, và can đảm đứng lên tranh đấu quyết liệt cho điều mình tin, cho
những quyền căn bản của con người, thì ở nơi đó, sự đổi thay mang lại ít bạo
lực nhất, những quyền căn bản được phục hồi và xã hội phát triển nhanh nhất.
Hãy nhìn, như một phản đề, những gì đã xảy ra trong cuộc cải cách ruộng đất ở
Việt Nam vào thập niên 50, trong cuộc “cách mạng văn hóa” ở Trung Hoa vào thập
niên 60, và sự thống nhất bằng quân sự và áp đặt chủ nghĩa ở Việt Nam vào 1975.
Và, như chính đề, hãy nhìn những gì đã xảy ra trong những đổi thay lớn ở Đông
Âu, và đặc biệt, ở Tiệp Khắc, vào 1989.
Bài
viết này được đăng lại vì tác giả tin những điều trình bày trong bài viết chưa
bị thời gian hai mươi sáu năm đào thải, ít ra, với trường hợp Việt Nam. Tác giả
giữ nguyên lời đề tặng những nhà văn Việt Nam, như trong bản gốc.
Maryland,
tháng 8 năm 2016
Trương Vũ
Prague (1989) • Source: The Guardian.com
Tháng
Giêng 1968, Alexander Dubcek, lãnh tụ Ðảng Cộng Sản (CS) Tiệp Khắc chủ trương
đổi mới chế độ trong một chính sách được gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa Với Bộ Mặt
Nhân Bản”. Biến cố này được gọi là “Mùa Xuân Prague”. Bảy tháng sau, nửa triệu
quân của khối Warsaw cùng với thiết giáp xa tiến vào Thủ đô Tiệp Khắc.
Alexander Dubcek bị tước hết quyền hành, đuổi ra khỏi đảng, đưa đến Slovakia
làm một viên chức kiểm lâm không ai biết tới.
Hai
mươi mốt năm sau, vào mùa đông 1989, cùng với những cơn lốc đang thổi xoáy vào
các chế độ CS ở Ðông Âu, người dân Tiệp Khắc vùng dậy. Vài ngàn người, rồi chục
trăm ngàn người, rồi gần một triệu người, tụ tập tại công trường Wenceslas đòi
hỏi chấm dứt một chế độ cai trị mà họ cho là rất thiếu nhân bản.
Từ
mùa xuân 68 đến mùa đông 89, có những cái đi và đến ngược chiều nhau. Có những
lãnh tụ lớn như Husak, Jakes, đến với quyền hành vào mùa Xuân 68 và bây giờ bị
buộc phải ra đi. Alexander Dubcek, bị buộc phải ra đi sau biến cố Mùa Xuân 68,
thì vào ngày 24 tháng 12 năm 1989, xuất hiện trên một bao lơn ở Công trường
Wenceslas để đón nhận những tiếng chào mừng nồng nhiệt của dân chúng.
Những
gì thực sự xảy ra ở Tiệp Khắc không phải chỉ đơn giản ở những cái đi và đến
này. Alexander Dubcek có tái xuất hiện, nhưng những khuôn mặt nổi bật ở Mùa
Ðông Prague lại là những nhân vật của nhóm Diễn Ðàn Công Dân (Civic Forum) như
nhà soạn kịch Vaclav Havel hay giáo sư Komarek của Hàn Lâm Viện Khoa Học. Những
nhân vật này có vẻ như mới lao mình vào những cơn lốc của thời đại kể từ ngày
19 tháng 11, năm 1989, tức ngày thành lập nhóm Diễn Ðàn Công Dân. Thật ra, cuộc
tranh đấu của họ đã khởi đầu từ 1955, vào năm mà “Bài Thơ Cho Người Trưởng Thành” được sáng tác ở Ba Lan. Kể từ ngày
đó cho đến trước mùa Ðông 1989, cuộc tranh đấu của Tiệp Khắc hoàn toàn là cuộc
tranh đấu của trí thức, không mang bóng dáng của những thành phần khác như thợ
thuyền hay nông dân.
Những gì đã thực sự xảy ra ở Tiệp Khắc từ 1955 đến nay?
Nhà
văn - lương tâm của đất nước:
Quốc
gia Tiệp Khắc chi mới chính thức thành lập như một nước độc lập vào ngày 28
tháng 10 năm 1918 sau sự bại trận của đế quốc Áo Hung vào Ðệ Nhất Thế Chiến.
Danh xưng đầu tiên là Cộng Hòa Tiệp Khắc. Hai sắc dân chính là Czech (64%) và
Slovak (30%). Trong Ðệ Nhị Thế Chiến, Tiệp Khắc bị Ðức chiếm đóng và một phần
lãnh thổ bị sát nhập vào Ðức. Một chính phủ lưu vong đã được thành lập ở Anh để
tiếp tục điều khiển cuộc kháng chiến trong nước.
Sau
khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, một cuộc bầu cứ được tổ chức vào 1946,
dưới ảnh hưỡng chính trị của Liên Xô, đã đem lại thắng lợi cho Ðảng Cộng
Sản Tiệp
Khắc với một đa số tương đối so với các đảng phái khác. Hai năm sau, vì
chia rẽ
và thiếu phối hợp, các đảng phái không CS đã thất bại trong nỗ lực ngăn
chặn sự
áp đặt xã hội chủ nghĩa theo kiểu của Liên Xô. Một bản Hiến Pháp mới
được ban
hành và danh xưng của quốc gia được đổi lại là Cộng Hòa Nhân Dân Tiệp
Khắc.
Sang
năm 1950, cuộc thanh trừng lớn trong nội bộ Ðảng CS bắt đầu. Bộ Trưởng Ngoại Giao
Vladimir Clementis bị cách chức và sau đó bị xử tử cùng với 10 đảng viên cao
cấp khác. Ðảng CS bắt đầu cai trị Tiệp Khắc theo đường lối cực đoan của Stalin.
Cuộc thanh trừng lan rộng đến các thành phần khác của xã hội. Ðường lối này vẫn
được duy trì sau cái chết của Stalin và cả sau khi chủ trương Xét Lại được áp
dụng ở Liên Xô.
Những
bất mãn lớn bắt đầu. Trước hết, một cuộc nổi dậy nhỏ của thợ thuyền xảy ra ở
một thị trấn xa xôi, Plzen, vào tháng Sáu 1953 để phản đối vụ đổi tiền mới.
Cuộc nổi dậy đã bị cảnh sát đặc biệt dập tắt và không tạo được tiếng vang đáng
kể.
Nhà
văn Tiệp Khắc có một thế đứng khá đặc biệt trong lịch sử của nước họ vì đó là
thành phần đóng góp nhiều nhất và hiệu quả nhất trong việc xây dựng nền độc lập
của Tiệp Khắc. Nhưng, cho tới lúc đó, Hội Nhà Văn Tiệp Khắc, được thành lập vào
1949, chỉ là một công cụ để tuyên truyền cho chế độ. Số hội viên có giới hạn và
đa số viết theo chỉ thị. Những người cầm bút có tư cách tránh né công việc như
vậy bằng cách xin dịch thuật sách ngoại ngữ hoặc sáng tác những bài thơ vừa đủ
mơ hồ để thoát lưới kiểm duyệt. Một số ít nhà văn hoặc chống đối hoặc không
viết theo đường lối đã phải chịu những trừng phạt khác nhau tùy theo cấp độ.
Thi sĩ Laco Novomesky bị án mười năm tù vì đã viết những bài thơ “thiếu ái
quốc”.
Ngày
21 tháng Tám 1955, một tuần san văn học ở Warsaw, tờ Nowa Kultura, đăng tải một
bài thơ dài và cay đắng của một nhà thơ CS Ba Lan, Adam Wazyk, mang tựa đề “Bài Thơ Cho Người Trưởng Thành”. Nhà thơ
Wazyk, trong suốt cuộc đời của ông kể từ lúc bắt đầu khôn lớn, đã tận tụy phục
vụ cho lý tưởng CS. Bỗng nhiên, ông sáng tác và gởi đăng bài thơ nói trên như
một bản tuyên chiến gởi đến chế độ. Ngay sau đó, ông bị trục xuất khỏi hội Nhà
Văn Ba Lan và đồng thời chủ bút tập san Nowa
Kultura cũng bị cách chức. Tuy nhiên, bài thơ của Adam Wazyk ở Ba Lan đã
đánh thức những người trưởng thành ở Tiệp Khắc, nhất là những người cầm bút.
(1)
Ðại
Hội kỳ 2 của Hội Nhà Văn Tiệp Khắc được tổ chức vào tháng Tư năm 1956. Tổng Thống
lúc đó là Zapotocky đến đọc diễn văn khai mạc, trong đó ông nhấn mạnh là Ðảng
không hề và sẽ không bao giờ chi phối vào các công trình văn học, và các nhà
văn Tiệp Khắc hoàn toàn có tự do để sáng tác. Ngay lập tức, thi sĩ nổi tiếng
của Tiệp Khắc là Jaroslav Seifert đã cùng với nhiều nhà văn khác như Frantisek
Hrubin mạnh mẽ chỉ trích sự thiếu thành thật trong bài diễn văn và yêu cầu đảng
trả tự do cho những người cầm bút đang còn ở trong tù. Những nhà văn đã kịch
liệt công kích chính sách “viết theo yêu cầu” và cho đó là một thái độ nhục mạ
người cầm bút. Sau đó, khẩu hiệu được trương lên ở Ðại Hội là “Nhà Văn - Lương Tâm Của Ðất Nước”. Mặc
dầu Seifert và Hrubin được bầu vào chủ tịch đoàn, đảng đã phản công khá hữu
hiệu và cuối cùng áp lực được đại hội đưa ra một tuyên ngôn công nhận Ðảng CS
Tiệp Khắc như là “Người đề xướng và tổ chức cuộc cách mạng vĩ đại” và cám ơn
Ðảng về “Những đề nghị khôn ngoan và đứng đắn”.
Vào
tháng Năm 1956, các nhà văn thuộc Nhóm Phản Kháng đã cho phát hành một tạp chí
lấy tên là Tháng Năm (Kveten) nhằm cổ
võ những công trình văn học có giá trị thực sự. Mô thức này đã lan tràn sang
nhiều lãnh vực khác. Và, chính những hoạt động có tính quốc cấm này đã làm cho
đời sống văn hóa của Tiệp Khắc trở lại sinh động.
Ðại
Hội kỳ 3 tổ chức vào tháng Sáu 1957, sau khi các cuộc nổi dậy ở Poznan (Ba Lan)
và Budapest (Hung Gia Lợi) đã hoàn toàn thất bại. Nhà thơ Frantisek Hrubin bị
ép buộc đứng lên đọc lời tự phán về những “Phát biểu sai lầm” của ông trong kỳ
đại hội trước. Về phần Seifert lúc đó đã 56 tuổi, ông vẫn không chịu đầu hàng,
và không chịu tự ý rời khỏi Chủ Tịch đoàn dưới áp lực của Ðảng. Nhóm chủ trương
tạp chí Tháng Năm tuyên bố hậu thuẫn Seifert. Cùng lúc đó, một số khuôn mặt mới
đã nổi bật lên để cùng với Seifert và Eduard Goldstucker, vừa mới được trả tự
do, làm một cuộc cách mạng cho trí thức Tiệp Khắc. Các khuôn mặt đó là nhà thơ
Jan Prochazka, nhà soạn kịch Ivan Klima, nhà viết tiểu thuyết Ladislav Mnacko,
và nhà soạn kịch Vaclav Havel. Lúc đó, Vaclav Havel mới 21 tuổi.
Hai
năm sau, Ðảng áp lực Hội Nhà Văn trục xuất Seifert và bốn nhà văn thuộc Nhóm
Phản Kháng. Sau đó, đảng đóng cửa tạp chí Tháng
Năm. Những người phản kháng bắt đầu đi tìm một phương thức đấu tranh khác.
Sang
năm 1960, danh xưng của Tiệp Khắc được đổi lại là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Tiệp
Khắc.
Tháng
Tư 1963, nhà văn Ladislav Mnacko hoàn thành tác phẩm “Những Bản Phúc Trình Bị Trì Hoãn” (Delayed Reports). Tác phẩm này
làm náo động xã hội Tiệp Khắc vì đã đánh thẳng vào lương tâm của những trí
thức, kết án thái độ thụ động của họ và coi thái độ thụ động này như là một
hình thức toa rập với tội ác, một điều mà đa số trí thức muốn tảng lờ. Tác phẩm
của Mnacko đã tạo nên cuộc biểu tình của sinh viên Prague vào ngày Lễ Lao Ðộng
1963.
Cuối
tháng Năm, Hội Nhà Văn Tiệp Khắc cho phổ biến lời phát biểu của nhà thơ Laco Novomesky,
lúc đó đã mãn hạn tù. Lời phát biểu có những câu sau đây:
“Thảm kịch của chúng ta không phát sinh hoặc
không phải chỉ phát sinh từ sự kiện là có những kẻ đã tin nhiều hay tin ít vào
một điều gian dối và chấp nhận điều gian dối đó. Vì những người này, hoặc vì sợ
hãi, hoặc bằng hảo ý, cho rằng họ đang phục vụ cho một mục tiêu chính đáng nên
cứ chấp nhận điều gian dối. Thảm kịch của chúng ta phát sinh từ sự kiện – và sự
kiện này áp dụng cho những nhà văn hay nhà báo – là chúng ta đã cố gắng thuyết
phục người đọc tin rằng sự gian dối đó là sự thật, chúng ta đã đánh lạc hướng
và làm hoang mang cả một thế hệ đang đứng ở ngoài căn phòng này, lạc lõng, ngơ
ngác, vì không biết phải dựa vào cái gì để tin. Chúng ta cần mang đến cho thế
hệ đó sự tín nhiệm, lòng tin, và sự thật. Nhưng trước hết, hãy mang những điều
đó đến cho chính chúng ta.”
Cùng
trong năm đó, Vaclav Havel, đã 27 tuổi, hoàn thành vở kịch dài đầu tiên: “Viên Hội” (The Garden Party). Vở kịch
xây dựng trên những cái phi lý và lố bịch của xã hội đương thời bằng những lời
mỉa mai cay độc. Từ đó, nhiều sáng tác như vậy do những nhà văn đã nổi tiếng
hoặc những nhà văn mới nổi đã ra đời. Phản ứng của chế độ vẫn là một phản ứng
cổ điển nhưng hữu hiệu: đe dọa, tù đày,và cô lập.
Tháng
Giêng 1967, Ðại Hội kỳ IV của Hội Nhà Văn Tiệp Khắc ra Nghị Quyết yêu cầu tái
lập truyền thống văn học của Tiệp Khắc, đồng thời yêu cầu được tiếp xúc và trao
đổi văn hóa với các nước Tây phương. Lúc bấy giờ, lãnh tụ đảng là Antonin
Novotny. Phản ứng của chế độ vẫn như cũ, vẫn là đe dọa, tù đày và cô lập.
Mùa
Xuân Prague:
Ðầu
tháng 11, 1967, sinh viên Ðại Học ở Prague biểu tình đòi thay đổi đường lối cai
trị của Ðảng. Ðồng thời, trong nội bộ của Trung Ương Ðảng, Alexander Dubcek cầm
đầu nhóm chủ trương cải cách, áp lực Novotny hủy bỏ phương thức cai trị cực
đoan. Ðể chống lại những áp lực này, Novotny kêu gọi sự hậu thuẫn của Liên Xô.
Tháng 12 năm đó, lãnh tụ Liên Xô Leonid Brezhnev đến thăm và quan sát tình hình
ở Prague và ông từ chối hậu thuẫn Novotny. Tháng Giêng 1968, Dubcek được bầu
vào chức Bí Thư Thứ Nhứt của Ðảng CS Tiệp Khắc thay thế Novotny. Sau đó, nhiều
thành phần thủ cựu cũng lần lượt bị thay thế. Ðến tháng Ba, Novotny mất luôn
chức Tổng Thống và Tướng Ludvik Svoboda lên thay.
Alexander
Dubcek chỉ định rồi chỉ đạo một ủy ban gồm nhiều khuynh hướng khác nhau, từ cải
cách đến bảo thủ, soạn thảo một Chương Trình Hành Ðộng (CTHĐ) nhằm tạo một mô
thức xã hội chủ nghĩa mới, có tính “dân chủ” và “dân tộc”, thích hợp với hoàn
cảnh của Tiệp Khắc. Tháng Tư 1968, thành phần lãnh đạo Ðảng chấp thuận Chương
Trình Hành Ðộng. Alexander Dubcek đã gọi mô thức này là “Xã Hôi Chủ Nghĩa Với
Bộ Mặt Nhân Bản”. Ngoài những điểm liên hệ đến cải cách chế độ bầu cử, xác nhận
quyền tự do hội họp và phát biểu, CTHÐ cũng có những điểm quan trọng như tái
xác nhận sự theo đuổi mục tiêu Cộng sản và sự liên minh với Liên Xô và khối
Warsaw.
CTHÐ
của Dubcek đã tạo một sức sống mới cho xã hội Tiệp Khắc. Dân chúng đã phấn khởi
gọi biến cố đó là Mùa Xuân Prague. Những tuần lễ tiếp theo, những bài báo đả
kích Liên Xô đã thấy xuất hiện trên báo chí. Một số tổ chức có tính chính trị
đã được thành lập và không phụ thuộc vào sự kiểm soát của Ðảng. Các phần tử bảo
thủ yêu cầu đàn áp các sinh hoạt này nhưng Alexander Dubcek không chịu nghe.
Cuối
tháng Sáu năm đó, Ludvik Vaculik, tiểu thuyết gia và đồng thời cũng là
đảng viên
CS kỳ cựu, cho đăng tải một tuyên ngôn nhan đề “Hai Ngàn Chữ” với chữ ký
của 70
nhà văn và nhà khoa học. Bản Tuyên Ngôn nói đến những trở ngại có thể
gây ra
cho Tiệp Khắc bởi những phần tử bảo thủ trong đảng và các thế lực ngoại
quốc và
hô hào dân chúng hãy đứng dậy tự mình thực hiện lấy chương trình cải
cách. Liên Xô và các nước thuộc khối Warsaw liền tổ chức một phiên họp
đặc biệt không mời
Tiệp Khắc tham dự. Sau đó, họ gởi cho Ủy Ban Lãnh Đạo (UBLÐ) Ðảng CS
Tiệp Khắc
một văn thư lên án những phần tử phản động đã viết tuyên ngôn này đồng
thời yêu
cầu Tiệp Khắc tái lập chế độ kiểm duyệt, bãi bỏ các sinh hoạt chính trị
không
thuộc đảng CS và trục xuất ra khỏi đảng các phần tử hữu khuynh. Sau
cùng, văn
thư nhấn mạnh đến nhiệm vụ phải bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở Tiệp Khắc, và
coi đó
là nhiệm vụ chung của tất cả các nước anh em, thuộc khối Warsaw. Dubcek
phản
đối bức tối hậu thư và yêu cầu gặp riêng với Liên Xô.
Trong
cuộc gặp gỡ này, Alexander Dubcek đã khẳng định sự trung thành của Tiệp Khắc
với chủ nghĩa Mác Lê và với liên minh Warsaw hay Comecon. Ông hứa trừng trị
những kẻ muốn tái lập Ðảng Dân Chủ Xã Hội cũ, những phần tử “phản cách mạng”,
đồng thời kiểm soát báo chí hữu hiệu hơn. Brezhnev ra lệnh rút các lực lượng
quân đội Xô Viết khỏi Tiệp Khắc nhưng cho dừng lại dọc theo biên giới.
Trong
khi đó, Dubcek và các đảng viên cao cấp thuộc khuynh hướng cải cách lại dự trù
một kế hoạch loại trừ tất cả những phần tử chống cải cách ra khỏi Trung Ương
Ðảng trong kỳ Ðại Hội Ðảng sẽ tổ chức vào tháng Chín. Hầu hết những phần tử này
có khuynh hướng thân Nga và họ đã cầu cứu Liên Xô. Ngày 20 tháng Tám, 1968, nửa
triệu quân thuộc các nước Liên Xô, Ðông Ðức, Ba Lan, Hung Gia Lợi và Bảo Gia
Lợi tiến vào Tiệp Khắc. Lỗ Ma Ni ngay từ đầu đã phản đối quyết định của các
nước Warsaw đối với Tiệp Khắc nên không tham dự chiến dịch này. Dubcek và Ủy
Ban Lãnh Ðạo Ðảng lên tiếng phản đối sự can thiệp quân sự của khối Warsaw nhưng
đồng thời ra lệnh cấm quân đội và dân chúng dùng vũ lực cản trở các đoàn quân
này. Tuy nhiên, khi các xe tăng tiến vào Prague, bạo động cũng đã xảy ra từ
phía dân chúng và khoảng 100 người dân Tiệp Khắc đã bị giết. (4) Cơ quan đầu
tiên bị thiết giáp xa bao vây là trụ sở của Hội Nhà Văn Tiệp Khắc.
Alexander
Dubcek bị bắt vào đêm 20 tháng Tám và đưa sang Moscow gặp Brezhnev. Sau đó, ông
vẫn được giữ chức vụ cũ nhưng không có thực quyền cho đến tháng Tư 1969 thì
chính thức từ chức. Gustav Husak lên thay. Cuối năm đó, Husak cử ông đi làm Ðại
Sứ tại Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lúc ông đang còn ở Ankara, Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng bỏ
phiếu trục xuất ông ra khỏi Ðảng. Những người còn cảm tình với ông ở trong đảng
đã ngầm khuyên ông xin ti nạn chính trị ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng ông vẫn trở về Tiệp
Khắc. Sau đó, ông được đưa đến thành phố Bratislava, thủ phủ của Slovakia, làm
một viên chức kiểm lâm cho đến cuối năm 1988.
Ðối
với các thành phần đã tham dự vào Chương Trình Hành Ðộng, hậu quả dành cho họ
khá trầm trọng. Hơn một nửa thành viên của Trung Ương đảng bị thay thế. Hơn nửa
triệu đảng viên bị trục xuất. Ða số các viên chức cao cấp trong những lãnh vực
khác nhau bị đuổi việc. Xã hội Tiệp Khắc trở lại tình trạng cai trị khắt khe
cũ.
Vào
Mùa Thu 1970, một nhóm trí thức gồm cả các cựu đảng viên CS thành lập Phong Trào
Xã Hội Của Công Dân Tiệp Khắc nhằm đấu tranh theo tinh thần của Mùa Xuân
Prague. Ngay sau đó, 47 thành viên cao cấp của phong trào bị bắt và bị đưa ra
tòa xét xử vào mùa Hè 1972. Từ đó, một số đông nghệ sĩ và chuyên viên đã trốn
khỏi nước.
Hiến
Chương 77:
Vào
ngày 6 tháng Giêng 1977, các nhật báo ở Tây Ðức đã cho đăng tải một Tuyên Ngôn
lấy tên là Hiến Chương 77 (Charter 77). Bản Tuyên Ngôn làm tại Tiệp Khắc mang
chữ ký của 242 người Tiệp Khắc thuộc nhiều thành phần khác nhau: Nhà văn, nghệ
sĩ, giáo chức, và cựu đáng viên CS. Giáo sư Jan Patocka, nhà soạn kịch Vaclav
Havel và giáo sư Jiri Hajek được nhắc tới trong Tuyên Ngôn như là những phát
ngôn viên chính thức của Hiến Chương 77.
Hiến
chương 77 nói lên những bất mãn của những người ký tên đối với những thực tế đang
xảy ra ở Tiệp Khắc liên hệ đến Dân quyền và Nhân quyền. Họ lên án chính phủ
Tiệp Khắc đã không tôn trọng những quyền công dân được ghi trong Hiến Pháp cũng
như trong các thỏa ước quốc tế mà Tiệp Khắc đã ký như thỏa ước Helsinki vào
1975.
Hiến
Chương 77 cũng nói rõ mục đích của Hiến Chương là: theo dõi những trường hợp cá
nhân về vi phạm nhân quyền, đưa những đề nghị sửa sai, và đóng vai trò trung
gian giữa chính phủ và những cá nhân bị áp bức.
Ðến
cuối năm 1977, có khoảng 800 người ký tên vào Hiến Chương, trong số đó có một
số ghi là công nhân. Hiến Chương đã được phổ biến trong lãnh thổ Tiệp Khắc theo
kiểu chuyền tay.
Gustav
Husak đã phản ứng mạnh mẽ đối với bản Hiến Chương này. Những người ký tên đã
hoặc bị bắt giam hoặc bị đuổi việc. Báo chí đã được nhà nước vận dụng để tấn
công Bản Hiến Chương một cách hạ cấp. Dân chúng bị bắt buộc phải ký tên vào
những bản lên án các thành phần phản động của Hiến Chương 77.
Trong
khi đó, cảnh sát và công an đã hành động hoàn toàn đúng như những gì bản Hiến
Chương đã nêu: bắt người vô cớ, lục soát bất hợp pháp, hạch hỏi và tra tấn trái
phép. Giáo sư Jan Patocka, một người nổi tiếng và có uy tín, bị cảnh sát mời
đến thẩm vấn và một tuần lễ sau thì ông ta chết. Vaclav Havel bị bắt bốn tháng
thì được thả. Ðến cuối năm, ông vào tù trở lại và lần này, ông bị kết tội chống
chính phủ.
Những
cuộc đàn áp như vậy kéo dài trong suốt năm 1978 và số người ký tên vào Hiến Chương
vẫn tăng lên. Vào tháng Tư năm đó, một nhóm trí thức khác thành lập một ủy ban
để bảo vệ những người đã bị xét xử trái phép. Họ đòi chế độ Husak phải đưa
những người bị bắt ra xử công khai. Chế độ đã phản ứng bằng cách đưa hết những
trí thức này vào nhà giam. Từ đó, Phong Trào Hiến Chương 77 yếu đi hẳn. Tuy
nhiên, những kẻ đã tham dự vào Hiến Chương 77 vẫn tiếp tục cuộc phản kháng của
họ bằng cách này hay cách khác.
Mùa
Ðông Prague:
Tháng
Tám 1989, Tadeusz Mazowiecki của Công Ðoàn Ðoàn Kết thành lập chính phủ “không
Cộng Sản” đầu tiên ở Ba Lan. Tháng Mười 1989, Ðảng Cộng Sân Hung Gia Lợi tuyên
bố giải tán. Qua đầu tháng 11, Bức Tường Bá Linh bị phá vỡ.
Giữa
một không khí đầy biến động như vậy ở Ðông Âu, Tổng Bí Thư Ðảng CS Tiệp Khắc,
Milos Jakes, tuyên bố trong một đại hội thanh niên là Ðảng sẽ không tha thứ bất
cứ một cuộc xuống đường nào nhằm phản đối sự cầm quyền của Ðảng và cũng sẽ
không nới lỏng sự kiểm soát chính trị. Năm ngày sau, 15 ngàn sinh viên và thanh
niên biểu tình chống chính phủ trên các đường phố ở Prague gần công trường
Wencelas. Cảnh sát đã thẳng tay đàn áp cuộc biểu tình và gây thương tích cho
hơn 100 người.
Ngày
19/11/1989, Vaclav Havel và những đồng chí của ông thuộc nhóm Hiến Chương 77
cùng với một số sinh viên, nghệ sĩ và công nhân họp nhau tại tầng dưới của một
hí viện lâu đời nhất Âu Châu, hí viện Lanterna Magica. Họ thành lập Diễn Ðàn
Công Dân, đóng vai trò của một tổ chức chính trị đối lập. Ðầu tiên, họ lên
tiếng yêu cầu trừng phạt những kẻ đã ra lệnh đàn áp biểu tình và đòi hỏi tất cả
những lãnh tụ Cộng Sản có trách nhiệm đàn áp phong trào Mùa Xuân Prague phải từ
chức. Milos Jakes đã bác bỏ những yêu sách này. Sau đó. Vaslav Havel cầm đầu Ủy
Ban gồm 18 người, tổ chức cuộc biểu tình ở công trường Wencelas vào ngày 20 để hậu
thuẫn cho những đòi hỏi của họ.
Hầu
hết những nhạc sĩ, ca sĩ hát dân ca, nhà văn, lực sĩ, và cả những tu sĩ, đã
tiếp tay với ông vận động biểu tình để biến Diễn Ðàn Công Dân thực sự trở thành
phong trào quần chúng bên cạnh tư cách của một tổ chức chính trị. Hơn 200 ngàn
người đã tụ họp lại Công trường Wencelas. Những cuộc biểu tình tương tự đã xảy
ra trên những thành phố khác. Diễn Ðàn Công Dân đã đưa ra yêu sách đòi bầu cử
tự do và đòi Husak, Jakes
và những lãnh tụ cực đoan phải từ chức. Ðến lúc này, Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng không
còn coi thường Diễn Ðàn Công Dân chỉ như là sản phẩm của một số nhà văn và trí
thức. Ngày 24 tháng 11, Jakes và chín thành viên khác của Ủy Ban Lãnh Ðạo từ
chức. Karel Urbanek, một lãnh tụ ít tiếng tăm lên thay chức Tổng Bí Thư đảng.
Ngày hôm đó, Alexander Dubcek xuất hiện tại Công trường Wencelas, ông đã được
mọi người hoan hô nhiệt liệt. Những người thuộc thế hệ ông đã khóc khi nghe lại
tiếng nói của ông. Alexander Dubcek đã im hơi lặng tiếng trong suốt 20 năm. Ông
không ký tên vào Hiến Chương 77. Ông chỉ làm được hai cử chỉ nhỏ tạm tương xứng
với vị thế của ông, đến thăm Vaclav Havel vào giữa năm 1989 khi nhà soạn kịch
được thả ra khỏi tù và gởi lời mừng sinh nhựt Ðức Hồng Y Frantisek Tomasek, một
người không được cảm tình của chế độ. Do đó, ông đã được chào mừng như một cựu
lãnh tụ hơn là một lãnh tụ. Ông vẫn nhắc lại chủ trương “Xã Hội Chủ Nghĩa Với
Bộ Mặt Nhân Bân”. Nhưng, ở Mùa Ðông Prague 89, câu nói này không còn tạo được
một âm hưởng nào như 21 năm trước. Nhiều người có nghĩ đến một vai trò chuyển
tiếp mà ông có thể đóng được, và chỉ có thế. Ông cũng không tỏ ra có một tham
vọng nào. Ông ủng hộ Diễn Ðàn Công Dân củng với tất cả những đòi hỏi của họ.
Vì
chế độ vẫn không chịu thỏa mãn tất cả những yêu sách của Diễn Ðàn Công Dân, Vaclav
Havel kêu gọi một cuộc Tổng Ðình Công trong 2 giờ để cảnh cáo chế độ. Vaclav
Havel đã thuyết phục được thợ thuyền nhập cuộc. Ngày 27 tháng 11/1989, hơn một
triệu người Tiệp Khắc đã tham dự cuộc Tổng Ðình Công ở Prague. Có cả một phái
đoàn của những người mù xuất hiện tại Công trường Wencelas. Vaclav Havel thách
đố chế độ hãy nhìn thẳng vào Công trường để thấy đó như một cuộc trưng cầu dân
ý bác bỏ tư cách lãnh đạo chính trị của đảng Cộng Sản Tiệp Khắc. Những yêu sách
cũ như bầu cử tự do được nhắc lại, và thêm vào những yêu sách mới như thay đổi
nội các và giao những bộ quan trọng như Quốc Phòng cho những người không Cộng
sản v.v... Dĩ nhiên, những đòi hỏi như vậy đã không được dễ dàng chấp nhận. Ký
giả Jiri Dienstbier phát ngôn viên của Diễn Ðàn Công Dân, một người đã ra vô
nhà giam rất nhiều lần, tuyên bố với báo chí: “Ở Tiệp Khác, trong suốt 20 năm qua, mọi người đều biết rằng chế độ này
không thể nào giải quyết được những khó khăn của đất nước. Nhưng mọi người vẫn
sợ. Bạo lực và áp bức là những phương tiện chính để cai trị. Quyền hành đã được
xây dựng từ đó và chỉ muốn được xây dựng từ đó. Vì vậy, những kẻ cầm quyền rất
sợ nhượng bộ vì họ e ngại nếu nhượng bộ, quyền hành của họ sẽ tiêu tan”.
Tuy
nhiên, sau cùng, những kẻ cầm quyền có nhượng bộ.
Ngày
30 tháng 11. Quốc Hội Tiệp Khắc biểu quyết bãi bỏ tư cách lãnh đạo chính lrị
của Ðảng CS Tiệp Khắc như đã ghi trong Hiến Pháp. Ủy Ban Lãnh Ðạo Ðảng tuyên bố
sẽ tổ chức bầu cử tự do. Ngày 4 tháng 12, khối Warsaw chính thức công nhận:
“Cuộc xâm lăng Tiệp Khắc năm 1968 1à một quyết định sai lầm”. Trong vòng một
tuần lễ, Nội Các Tiệp Khắc thay đổi ba lần và cả ba lần, họ đều chưa đáp ứng
được đúng những đòi hỏi trước đó của Diễn Ðàn Công Dân. Dĩ nhiên, những kẻ cầm
quyền còn muốn kéo dài quyền lực của họ.
Biến
cố Mùa Ðông Prague có thể vẫn chưa đến hồi kết cuộc. Tuy nhiên vấn đề đáng nới
ở đây là sự thức tỉnh này của dân tộc Tiệp Khắc. Ðể nói về sự thức tỉnh này,
không có gì hơn là ghi lại một câu viết trên bức tường một hầm xe điện ngầm ở
Prague: “Chúng ta đã tập bay như chim và
tập lặn như cá. Có phải đây là lúc chúng ta bắt đầu sống như những con người?”
*
Cuộc
tranh đấu chống chủ nghĩa Cộng sản ở Tiệp Khắc mang một sắc thái đặc biệt ở Ðông
Âu: một cuộc tranh đấu kiên trì và thuần trí thức. Mục đích chính được nhìn qua
các Tuyên Ngôn hay sách vở của họ, không nói rõ là họ chống chủ nghĩa CS mà chỉ
nói là chống bất cứ một chế độ, một thế lực hay một chủ trương nào nhằm áp đảo
hay tước đoạt những quyền căn bản của con người. “Chống Cộng” do đó chỉ được
hiểu như một hệ quả đương nhiên từ mục tiêu chính.
Cái
lợi của cách tranh đấu này là dù có hiểu được thâm ý của họ, những kẻ cầm quyền
cũng khó tìm thấy một cái cớ thật chính đáng tiêu diệt họ cách tàn bạo. Thêm
vào đó. với sự can đảm, với ý chí sắt đá, với tài năng, và với ý thức cao độ về
trách nhiệm của một người trí thức đối với dân tộc, họ đã tạo được một sức mạnh
đủ cho cuộc tranh đấu tồn tại trong suốt hơn 30 năm cho đến khi cơ hội đến, họ
chợp lấy được ngay, và chỉ trong 10 ngày họ đã đạt được những gì mà Ba Lan mất
đến 10 năm.
Nhược
điểm của cách tranh đấu này là làm cho họ xa rời quần chúng. Những tác phẩm văn
học hay nghệ thuật của họ mặc dầu vẫn làm cho quần chúng say mê thưởng thức,
nhưng quần chúng phục họ hơn là thấy họ với quần chúng là một. Về điểm này, trí
thức Tiệp Khắc đến mãi mùa Ðông 89 mới đạt được cái mức mà trí thức Ba Lan đã
đạt từ 1976, khi tổ chức Bảo Vệ Công Nhân (KOR) ra đời để tạo một liên minh với
Thợ Thuyền. Chính vì vậy mà trong suốt hơn 30 năm, người trí thức Tiệp Khắc khá
lẻ loi trong cuộc tranh đấu của họ.
Nếu
không có sự thành công của cuộc cách mạng Ba Lan cùng với những biến động mới
nhất phát sinh từ những chủ trương Perestroika và Glasnost ở Liên Sô, không
chắc những trí thức Tiệp Khắc đã làm nên được lịch sử. Trong trường hợp này,
những kẻ cầm quyền sẽ tiếp tục cô lập họ như những kẻ cầm quyền ở Ba Lan đã làm
đối với trí thức Ba Lan trước 1976. Trường hợp của Tiệp Khắc còn thuận lợi hơn
cho kẻ cầm quyền vì Tiệp Khắc có nhiều tài nguyên, dân số ít và hưởng được một
truyền thống tốt về phát triển kỹ nghệ từ trước thế chiến nên thợ thuyền hưỡng
một mức sống vật chất tương đối đầy đủ. Do đó, sẽ rất khó cho người trí thức
thuyết phục thợ thuyền làm những điều có thể nguy hại đến đời sống bình thường
của họ.
Dù
sao, mỗi nước có một hoàn cảnh riêng, người trí thức Tiệp Khắc có thể đã tiến
hành cuộc tranh đấu của họ bằng cách tốt nhất mà họ có thể làm được. Riêng đối
với những nhà văn Tiệp Khắc, những người đã ý thức trách nhiệm của mình là phải
nói lên tiếng nói lương tâm của đất nước, họ đã làm được những điều mà những
đồng nghiệp của họ ở những nơi khác, dù trong hoàn cảnh thuận lợi hơn, đã không
làm được. Ðây cũng là lý do cắt nghĩa tại sao nhà văn Tiệp Khắc luôn luôn có
một chỗ đứng cao trong lịch sử của nước họ.
Một
điều cuối cùng cần được nới đến với lòng khâm phục là trình độ dân trí của Tiệp
Khắc. Gần một triệu người xuống đường lật đổ một chế độ mà họ đã chán ngấy, vậy
mà vẫn giữ được kỷ luật và tự chế đến độ gần như không có một điều đáng tiếc
xảy ra. Thêm vào đó là một ý thức chính trị vượt bực. Hoan hô Dubcek nhưng cũng
hiểu ra rằng Dubcek đã không theo kịp thời cuộc. Nếu sau này, tổ chức Diễn Ðàn
Công Dân đạt được những mục tiêu tranh đấu của họ, chắc chắn phần lớn phải là
nhờ ở tinh thần kỷ luật và ý thức chính trị cao của người dân Tiệp Khắc.
Trương
Vũ
Maryland,
tháng 12 năm 1989
Chú
thích:
Nhiều
nhà nghiên cứu, trong đó có Tad Szulo, đề nghị xem ngày đăng tải “Bài Thơ Cho Người Trưởng Thành” như là
ngày đầu của cuộc tranh đấu trí thức cho cả Ðông Âu, không riêng gì cho Ba Lan
hay Tiệp Khắc. (Xem tác phẩm đã nêu ở chú thích 2).
Szulo,
Tad. “Czechoslakia Since World War II”,
New York: The Viking Press, 1971.
Nyrop,
Richard. “Czechoslakia: A Court Study”,
Washington, D.C.: The American University/Area Handbook Series, 1982.
Doerner,
William. “Our Time Has Come” Time, Dec. 4, 1989.
Harden,
Blaine. “Czechoslovakia In the End of Communist
Monopoly”. The Washington Post. Nov. 29, 1989.
Kamm,
Henry. “Spirit of 1968 is still alive,
still distinct”, The New York Times, Nov. 30, 1989