TRƯƠNG
VŨ
Nắng vàng trong rừng khô
N
Ắ N G V À N G
Tranh Trương Vũ
sơn dầu trên
bố, 30" x 24", thực hiện năm 2010
Cách đây
hơn ba mươi năm, khi còn ở Philadelphia, mỗi lần đi bộ từ nhà trọ đến trường
đại học, tôi thường đi ngang một khu townhouse thuộc giới nghèo trên đường
Chestnut. Nếu đi vào buổi sáng, khoảng mười giờ, có nắng tốt, thế nào tôi cũng
nhìn thấy một người đàn bà ngồi trước thềm nhà. Da trắng, khoảng sáu mươi, tóc
trắng như bạch kim, chải sát vào đầu. Lúc nào cũng vậy, người đàn bà ngồi im
lặng, bất động, mắt nhìn xa, đăm chiêu, trông như một pho tượng của Rodin. Có
vẻ như với bà những gì đang xảy ra trước mặt không có nghĩa gì cả. Tôi không
biết bà đang nhìn gì, thấy gì. Chỉ có cảm giác là vào lúc đó trong đầu bà chắc
bao nhiêu hình ảnh của quá khứ đang trở về, bao nhiêu tâm tư từng lắng sâu vào
tâm khảm đang sống lại. Khó ai biết. Chỉ biết nơi con người đang ngồi bất động
đó hiển lộ một sự sống khác, dường như chứa chất một thảm kịch nào. Những lúc
như vậy, tôi đểu mơ có khả năng vẽ nên một chân dung đích thực, biểu hiện được
những phức tạp của con người, những thứ phức tạp thường tạo nên một cái đẹp
kinh hồn cho nghệ thuật. Giấc mơ đó không thực hiện được. Cũng có lúc, tôi muốn
tìm hiểu hơn về bà, hoặc tìm cách nói chuyện với bà. Nhưng, tôi luôn ngần ngại,
không biết làm cách nào và cũng không chịu khó suy nghĩ kỹ hơn phải làm cách
nào.
Từ lúc rời
Philadelphia đến nay, thỉnh thoảng tôi có trở về, có đi ngang con đường cũ,
nhưng không bao giờ gặp lại con người đó. Hình ảnh người đàn bà ngồi như pho
tượng trước thềm nhà vào mỗi sáng rất khó quên. Nó khiến tôi liên tưởng đến một
vài hình ảnh khác, để viết ra những dòng sau đây.
Tôi có một
người bạn trẻ, LLT, tốt nghiệp về phân tâm học ở đại học Johns Hopkins,
Baltimore. Thời gian làm nghiên cứu sinh, T. tình nguyện vào làm trong một bệnh
viện tâm thần ở Boston và tại một số tư gia do cơ quan tỵ nạn địa phương giới
thiệu. Bệnh nhân của T. thuộc nhiều thành phần người Việt khác nhau, tuổi từ 15
đến 70. Ở đây, có những người đàn bà bị
điên loạn sau khi trải qua những nỗi đau kinh hoàng trên biển, mất chồng, mất con, bị hãm
hiếp,… Ở đây, có những đứa trẻ
mới trước đó sống êm ấm với gia đình bỗng chứng kiến những cảnh hãi hùng,
rồi vụt cái, mất cha, mất mẹ, mất anh em, rồi ngơ ngơ ngác ngác trong một xã
hội hoàn toàn xa lạ. Ở
đây, có những người qua tuổi trung niên hoàn toàn mất định
hướng, không đương đầu nổi với những đổi thay quá lớn, quá nhanh về hoàn cảnh,
văn hóa, ngôn ngữ, xã hội. Ở
đây, có những thanh niên mắc các loại bệnh về ảo giác, lúc nào
cũng trông thấy những hình ảnh kỳ lạ, nghe những âm thanh ma quái luôn thúc
giục mình làm những điều không phải, v.v. T.
làm việc với những bác sĩ, y tá, cán sự xã hội địa phương. Sau năm năm, vì nhu
cầu hoàn thành luận án, T. phải về lại trường rồi sau đó đi kiếm việc làm. Lúc
T. rời Boston, có khoảng 25 phần trăm trong số bệnh nhân này hồi phục để có thể
tiếp tục đời sống một cách tương đối bình thường như nhiều đồng bào khác của
họ. Những người còn lại, theo hiểu biết của T., đa số sẽ không chữa trị được.
Đời sống của họ như thế nào qua từng tháng ngày trong khu bệnh viện tâm thần,
cho đến những giờ cuối cùng, ít tai biết. Đến nay, vì làm việc ở xa, T. không
thể tình nguyện trở lại bệnh viện đó như trước, nhưng mỗi lần nói về những bệnh
nhân cũ cũa mình T. vẫn còn đầy xúc động như nói về những người thân bất hạnh.
Viết đến đây,
tôi chợt nghĩ đến trường hợp một người đàn bà tôi có nghe đến. Đó là một
phụ nữ trẻ đẹp khi cùng chồng và hai đứa con còn rất nhỏ vượt biển khoảng cuối
thập niên 70. Trên đường vượt biển, thuyền họ gặp nạn, hai đứa con rớt xuống
biển, người chồng vội nhảy xuống cứu và cả ba đều chết đuối. Thảm kịch xảy ra
nhanh như chớp trước mắt chị. Chị và một số người khác được cứu sống. Chúng ta
có thể mường tượng những gì xảy ra sau đó cho người đàn bà bất hạnh này. Sau
một thời gian ở trại tỵ nạn, chị được đi định cư ở Mỹ, luôn giữ bên mình những
kỷ vật của chồng và hai con, góp nhặt được sau tai nạn trên biển. Suốt gần mười
năm kế tiếp, chị sống âm thầm với kỷ niệm lẫn với những ám ảnh kinh hoàng từ
chuyến đi định mệnh đó. Không ai nghĩ rằng chị có thể trở lại đời sống bình
thường. Cho đến khi có một người đàn ông khác đến. Tình thương, hiểu biết, kiên
nhẫn, ân cần… đã mang lại chị một niềm an ủi. Họ thành vợ chồng. Trong nhà vẫn
để bàn thờ của hai con và người chồng cũ, nhưng họ quyết định sống một đời mới.
Không biết những năm tháng sau đó, những ám ảnh của quá khứ có thỉnh thoảng
quay về, chen vào giữa họ, nhưng đây vẫn là một “happy ending”. Chị may
mắn hơn rất nhiều người đàn bà khác cùng cảnh ngộ, cùng là nạn nhân của thảm
kịch trên biển đông trong thập niên đầu sau khi chiến tranh chấm dứt. Có nhiều
người còn trải qua những kinh nghiệm hãi hùng hơn.
Cuối năm rồi,
tôi hân hạnh gặp một thanh niên đến từ Việt Nam, do các con tôi mời về dùng cơm
tối với gia đình. Người thanh niên ở khoảng tuổi ba mươi, nói năng nhỏ nhẹ, ăn
mặc và ứng xử như mọi thanh niên bình thường khác. Khi trò chuyện với tôi, lúc
nào cũng xưng “con” nên lúc đầu tôi ngỡ là bạn của các con tôi. Sau vài câu
thăm hỏi mới biết đó là một linh mục thụ phong chỉ được vài năm. Sau khi thụ
phong, ông tình nguyện đến coi sóc một viện mồ côi nhỏ ở Sài Gòn, dành cho
những trẻ em bị HIV. Trong số này có những em còn cha mẹ nhưng bị bỏ vào đó vì
cha mẹ không đủ khả năng nuôi dưỡng. Tuổi thọ của các em thường không quá mười
lăm. Một số bác sĩ gốc Việt ở Mỹ khi về Việt Nam làm thiện nguyện có đến thăm
viện mồ côi này. Xúc động về hoàn cảnh của các em và cảm kích về những nổ lực
của ban điều hành và những người tình nguyện đến chăm sóc, cùng những khó khăn
về nhiều phương diện, nhóm bác sĩ quyết định vận động giúp đỡ viện. Phần lớn sự
trợ giúp đến từ các thân hữu Việt và Mỹ ở hải ngoại. Do đó, vị linh mục cùng
với một em bị HIV với một y tá đi theo săn sóc được mời sang Mỹ gặp gỡ các thân
hữu. Tôi có gặp bé gái đó. Xinh xắn, nói năng rất tự nhiên và lễ độ, dễ gây cảm
tình của người đối diện. Mới nhìn tưởng chừng đó là một em bé khoảng mười tuổi
nhưng thật ra em đã mười sáu tuổi, mà sức trưởng thành chỉ đến đó. Em nói năng rất
tự chế, chấp nhận số phận mình một cách tự tại. Những người đã đến thăm viện mồ
côi cho tôi biết các em ở viện không được trường học bên ngoài nhận nên viện tổ
chức lớp học riêng cho các em. Các em được học hành và vui đùa như mọi trẻ em
bình thường khác, mặc dầu tất cả đều biết mình sẽ rời cõi nhân gian này bất cứ
lúc nào. Dĩ nhiên, thực hiện được điều đó không dễ. Vị linh mục cần sự hỗ trợ
của rất nhiều người.
Nói đến những
bác sĩ thích làm thiện nguyện, tôi nghĩ đến một người bạn trẻ khác, bác sĩ LTL,
một chuyên gia về ruột. Ông thường mang sách vở về tặng và mời một số giáo sư y
khoa Mỹ và Việt về giảng ở đại học y khoa Huế. Trong một chuyến đi như vậy cách
đây khoảng mười năm, mỗi ngày ông đều thấy một bà cụ đẩy xe bán bánh mì đến chợ
Bến Ngự, sáng đi chiều về, ngang qua nhà ông. Ông để ý thấy một chân của bà cụ
đi đứng không được bình thường. Một hôm ông đến chợ, đến nơi bà cụ bán bánh mì,
ngồi xuống xin phép xem chân bà, thấy ghẻ lở ăn sâu vào thịt. Sau đó, cứ hai ba
ngày ông mang thuốc đến, tự tay chăm sóc vết thương. Khi vết thương gần lành
hẳn, có thể tự chữa lấy được, cũng là lúc ông từ giã bà cụ về lại Mỹ. Bà ôm ông
khóc. Ngày nay, LTL là một bác sĩ rất thành công ở Maryland. Ông có phòng mạch
riêng, nhận làm chủ nhiệm khoa ruột của một bệnh viện quan trọng một thời gian,
thỉnh giảng ở một đại học y khoa lớn, nhà cửa sang trọng, gia đình hạnh phúc.
Mới đây, ông kể tôi nghe, vài tháng trước ông có về lại Việt Nam. Người đồng
nghiệp ở y khoa Huế thường làm việc chung với ông trong những chuyến về thiện
nguyện, trước đây khá nghèo, bây giờ lái một chiếc Mercedes mói toanh ra đón
ông ở phi trường. Tôi thực sự mừng cho sự thành công của họ, mừng họ có nếp
sống cao, vì họ xứng đáng được hưởng thành quả do tài năng và sức lao động của
họ. Tuy nhiên, mỗi lần nghĩ đến LTL, hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu tôi
vẫn là hình ảnh một bác sĩ trẻ ngồi xuống chăm sóc ghẻ lở nơi bàn chân một bà
cụ bán bánh mì ở chợ Bến Ngự.
Ở hải ngoại,
chúng ta thường nói, thường ca ngợi những thành công cá nhân của người tỵ nạn
hay con cháu những gia đình tỵ nạn. Nhưng, chắc chúng ta cũng biết bên
cạnh đó có rất nhiều người không thành công. Đặc biệt, có nhiều người rất thiếu
may mắn đang kéo lê cuộc đời của họ trong âm thầm. Với bề ngoài lặng lẽ, họ
chứa chất bên trong một thế giới riêng, thường khó hiểu với người xung quanh.
Những cái thế giới như thế chắc phải có một sức mạnh nào đó, một sự nặng nề nào
đó để kéo họ thu mình vào, không tìm được lối ra, hay không muốn tìm một lối
ra. Cũng có thể, thế giới đó rất đơn giản, chỉ dung chứa một số phận không may,
không thể làm gì khác hơn là chấp nhận nó như một định mệnh nghiệt ngã. Như
trường hợp các trẻ em mồ côi bị HIV, như trường hợp bà cụ bán bánh mì ở chợ Bến
Ngự, v.v. Nếu may mắn, họ có thể gặp những người có một tâm lượng lớn hơn bình
thường, một sự thông cảm lớn hơn bình thường, cũng bằng một cách lặng lẽ đến
giúp đỡ, chia sẻ nỗi đau của họ. Như người tu sĩ, người chồng, và những người
trẻ tuổi tôi đã kể trên. Và, còn bao nhiêu người khác nữa chúng ta không thể
nói hết ở đây.
Những việc làm
đầy tình người của họ, dù nhỏ hay lớn, như những tia nắng vàng trong rừng cây
khô, đã làm cuộc đời có ý nghĩa hơn. Và, nếu những cố gắng đầy chân tình đó
biến đổi được một số phận không may hay mang lại một niềm vui, một tia hy vọng
về tương lai cho một người bất hạnh, tôi cho đó là một thành công lớn. Một thứ
thành công dễ khiến những người nghe đến trở nên thâm trầm hơn.
Trương
Vũ
Maryland, tháng
5. 2010