1.
TRỞ
VỀ PHÁ TAM GIANG
Phá Tam
Giang phá Tam Giang !
Gió hiu hiu
sóng gợn mơ màng
Trời vẫn
xanh màu xanh cố cựu
Mây trầm
ngâm khói nước miên man
Mười năm
dong ruổi mòn đất khách
Về cố hương
chiều xế nắng tàn
Bỏ nón, tháo
giày, xăn tay áo
Rửa phong trần thẹn với Tam Giang
Kè đá rêu xưa ngâm bến cũ
Còn người đi người đợi đò ngang
Còn xóm chài lưa thưa mành lưới
Còn nhấp nhô thuyền thúng thuyền nan
Không còn người chèo đò năm xưa tóc
bạc
Cô lái đò chiều nay trán nhăn
Trừng mắt nhìn ta trách móc :
“Mười mấy năm chú mới về làng !”
Mười mấy năm ? Phải rồi, ta quên mất
!
Cái thuở áo cơm trở mặt phũ phàng
Cái thuở áo cơm trở mặt phũ phàng
Điêu đứng năm Mùi ra đi năm Tuất
Ra đi mưu cầu y thực
Trở về nặng trĩu gian nan
Nhớ buổi ra đi thân tình đưa tiễn
Vợ xếp câu thơ chị gói khúc đàn
Đệ tử mươi người tung hô dâng rượu
Thôn nữ vài em gởi gắm gió trăng
Mẹ tóc trắng nhìn theo lặng lẽ
Con tóc xanh hai đứa dùng dằng
Ta mím môi, chỉ Tam Giang thề hẹn
Không là Tương Như mà khí khái dâng
tràn
Bước xuồng thuyền nhìn trời cao dõng
dạc
Gõ mạn thuyền ngâm khúc Hành
phương Nam
Hành phương Nam, hành phương Nam !
Mười mấy năm tấm cám thau vàng
Mười mấy năm tấm cám thau vàng
Thấp cao danh lợi
Chí khí dở dang
Tơi tả bao phen buồn thân thế
Đắng cay mấy bận khiếp hồng nhan
Mưa miền Nam, nắng miền Nam
Trông mây thấp thỏm, nghe gió bàng
hoàng
Mười mấy mùa trôi qua không nhớ
Quá đỗi mưa đau
Quá nhiều nắng khổ
Lẽ nào Trời bỏ ta chăng ?
Đọc thơ Nguyễn Bính chua tâm sự
Đọc lại thơ mình thẹn gió trăng
Chén rượu quê người sao mà bạc
Ân tình đất khách lắm đa đoan
Chiều nay về… bên phá Tam Giang
Phía bờ Đông vẫn xóm vẫn làng
Mười mấy năm còn ai trông ngóng
Mười mấy năm mỏi mòn ước vọng
Mẹ có thương con gió bụi lầm than ?
Chị có xót em một đời thất chí ?
Em không buồn ta ?
Sao lòng ta phai nhạt đá vàng !
Phá Tam Giang, ôi phá Tam Giang !
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Chị có xót em một đời thất chí ?
Em không buồn ta ?
Sao lòng ta phai nhạt đá vàng !
Phá Tam Giang, ôi phá Tam Giang !
Gió hiu hiu sóng gợn mơ màng
Nước vẫn mặn mòi mây quen thuộc
Sao lòng ta sóng gió ly tan
Xin xấu hổ với lời thề ngày trước
“Không công danh bất phục hoàn !”
Xin biết ơn cô lái đò nhân hậu
Còn thương ta mời ta quá giang
Thôi rửa hết phong trần nơi bến nước
Để trở về đứng khóc dưới hương quan
!
1996
2.
CỐ LÝ HÀNH
Chiều chết đuối trên sông ngờm ngợp
Nước đua chen đớp bọt nắng tàn
Đò qua sông đìu hiu bến đợi
Buồn rút lên bờ cây khai quang
Mây đổ xù lông như chó ốm
Trời bôi nhòe mặt ngóng đêm sang
Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp
Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn
Có biết ta về không cố lý ?
Mười năm chưa lạ mặt xóm làng
Mười năm chưa lạ mặt xóm làng
Sao phên giậu nghiêng đầu câm nín
Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han
Cổng khép rào vây vườn cỏ dại
Tường xiêu mái rách bóng nhà hoang
Ngõ vắng bàn chân như hụt đất
Tre già đang kể chuyện chôn măng
Nương rẫy đang phơi lòng dâu bể
Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng ?
Khóc làm sao vừa lòng cố lý ?
Phải đây là cố lý ta chăng ?
Đâu bóng mẹ già sau khung cửa
Đâu bóng mẹ già sau khung cửa
Và những
người em mặt trái soan
Đâu bóng chị
hiền như hoa cỏ
Bên luống cà
xanh liếp cải vàng !
Đất đá thở ra mùi u uất
Đất đá thở ra mùi u uất
Bốn bề hun
hút rợn màu tang
Ai chết
quanh đây mà cú rúc
Mà cơn gió
lạnh réo hồn oan
Ai trong muôn dặm không về nữa
Cố lý mười năm mộng bẽ bàng
Cố lý mười năm ngày trở lại
Như ngày Lưu Nguyễn xuống trần gian
!
1972
3.
BIÊN CƯƠNG HÀNH
Biên cương biên cương chào biên
cương
Chào núi cao rừng thẳm nhiễu nhương
Máu đã nuôi rừng xanh xanh ngắt
Núi chập chùng như dãy mồ chôn
Gớm, gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non
Mùa khô tới theo chân thù địch
Ta về theo cho rậm chiến trường
Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương
Lớp lớp chồm lên đè bẹp núi
Núi mang cao điểm ngút oan hờn
Đá mang dáng dấp hình chinh phụ
Trơ vơ chóp núi đứng bồng con
Khu chiến ngày tràn lan lửa dậy
Đá Vọng Phu mọc khắp biên cương
Biên cương biên cương đi biền biệt
Chưa hết thanh xuân đã cùng đường
Trông núi có khi lầm bóng vợ
Ôm đá mà mơ chuyện yêu đương
Thôi em, sá
chi ta mà đợi
Sá chi hạt
cát giữa sa trường
Sa trường
anh hùng còn vùi dập
Há rằng ta
biết hẹn gì hơn?
Đây biên
cương, ghê thay biên cương !
Núi tiếp
rừng, rừng tiếp khe truông
Hãi hùng
chưa trời hoang mây rậm
Mùa mưa về
báo hiệu tai ương
Quân len lỏi
dưới tàn lá dữ
Lá xôn xao
xanh mặt hoảng hồn
Sát khi đằng
đằng rừng dựng tóc
Ma thiêng
còn ngán lũ cô hồn
Cô hồn một
lũ nơi quan tái
Có khi đã
hoá thành thú muông
Cô hồn một
lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca
ngông hát cuồng
Chém cây cho
đỡ thèm giết chóc
Đỡ thèm môi
mắt gái buôn hương
Đây biên
cương, ghê thay biên cương !
Tử khí bốc
lên dày như sương
Đá chảy mồ
hôi rừng ứa máu
Rừng núi ơi
ta đến chia buồn
Buồn quá giả
làm con vượn hú
Nào ngờ ta
con thú bị thương
Chiều hôm bắc
tay làm loa gọi
Gọi ai nơi
viễn xứ tha phương ?
Gọi ai giữa
sơn cùng thủy tận ?
Ai người
thiên cổ tiếc máu xương ?
Em đâu, quê
nhà chong mắt đợi
Hồn theo mây
trắng ra biên cương
Thôi em, yêu
chi ta thêm tội
Vô duyên xui
rơi lược vỡ gương
Ngày về
không hẹn ngày hôn lễ
Hoặc ngày ta
nhắm mắt tay buông
Thôi em, chớ
liều thân cô phụ
Chiến trường
nay lắm nỗi đoạn trường
Nơi nơi lạnh
trăm dòng sông Dịch
Kinh Kha đời
nay cả vạn muôn
Há một mình
ta xuôi biên tái
“Nhất khứ
bất phục phản” là thường !
Thôi em, còn
chi ta mà đợi
Ngày về:
thân cạn máu khô xương
Ngày về: hôn lễ hay tang lễ
Hề chi ! buổi chinh chiến tang
thương
Hề chi ! kiếp cây rừng đá núi
Nghìn năm hồn quanh quẩn biên cương.
(tháng 5.1972)
4.
CUỐC ĐẤT MÀ CHƠI
tặng Lê văn Trung & Hạ Đình Thao
Giao vườn nộp ruộng lìa quê
Ra đi như thể trời thuê đi đày
Thân không dung nổi đất này
Lan man chi chuyện khói mây phương trời
Mấy năn đời đổi - đổi đời
Râu cùn mày cụt tả tơi chí tàn
Thú cầm biết giữ ổ hang
Cớ sao ta phải bỏ làng mất quê ?
Bao năm bấm bụng không về
Vườn xưa ruộng cũ cứ nghe mọc nhà
Người xưa “thiên hạ vi gi”
Nay thiên hạ bỏ mặc ta lưu đày
Ngâm câu vận khứ… thời lai…N
ghe đau lưỡi chuốc đang mài mồ hôi
Quê người cuốc đất mà chơi
Cơ hồ đang cuốc ruộng trời trồng mây !
5.
VỌNG
TRI ÂM
Ngọn bút ba
mươi năm
Trầm tư u
mặc
Văn chương
không tri âm
Chữ nghĩa
cùn nhan sắc
Muốn học
người xưa
Dốc một hồ
trường rót về đông tây nam bắc
Đâu giai
nhân mà mơ tái đắc
Đâu tâm giao
mà trao tình bút mực ?
Gieo một nỗi
lòng
Bốn biển
thinh không
Mây trói
chân trời
Gió dằn mặt
đất
Mượn đỉnh
núi cao trú hồn kiêu bạc
Ấp mộng ba
ngàn đêm
Thơ hóa thân
hoàng hạc
Vỗ cánh
xuống trời Nam
Bay qua Lữ
Kiều lâu
Bay về
Nguyên Minh các
Ôi, con chim
trần ai lưu lạc
Bâng khuâng
đậu xuống đất lành !
Ly tán hơn vạn ngày
Ly tán hơn vạn ngày
Mừng một giờ
tái đắc
Dâu bể bao
nhiêu năm
Vẫn uy nghi
những tấm lòng son sắt
Ngọn bút từ
nay không cô độc
Văn chương
một thuở chung tình
Chiều hôm cố
xứ
Lên núi một
mình
Đọc
lại đan tâm
Nhờ núi ký
âm
Trông vời
thương hải
Đọc
tam-thập-niên-tràng-thiên-trường-đoạn
Rót một hồ
trường không bao giờ cạn
Kết tinh từ
ân sủng văn chương
Lòng bỗng
thơm ngọn gió trầm hương…
2004
6.
ĐỀ
THƠ TRƯỚC MỘ THANH XUÂN
Có người bảo
ta ngu
Không thèm
ăn thóc nhà Chu
Bỏ về quê ăn
cỏ
Có kẻ khoái
ta ương gàn càn rỡ
Dám chê rượu
nhà Tần
Thứ rượu
cung đình của phường hiển vinh quý tộc
Tuổi mới ba
mươi
Có ai ngờ ta
uống hèn nuốt nhục
Lấy giẻ rách
che tai
Cắm chông
gai rào miệng
Nhặt nhạnh
gia tư ít đồ tế nhuyễn
Trèo lên xe
trâu
Lui về quê
kiểng
Mài răng gặm
nhấm cái thanh bần
Lượm lặt nứa
tre che căn lều nhỏ
Phên cửa phong phanh suốt ngày no
gió
Người quen tâng bốc gọi mao lư
Kẻ nôm na kêu đích danh nhà cỏ
Chẳng hay ho gì cỏ với mao
Thời bất lợi voi đành làm chó
Phong tống thời lai giun đất hóa
rồng
Góp nhặt chợ trời đầy hai túi chữ
Túi đựng thánh hiền kê đầu giường
ngủ
Túi đựng tầm phào
Lộn tùng phèo phàm phu tục tử
Thoải mái gác chân
Lựa trong gia tài một mớ phong vân
Đem ra chợ chiều rêu rao thanh sắc
Tội cô láng giềng thật thà nháy mắt
Khổ chị góa chồng mời mọc môn khoai
Tìm trong gia phong mấy lời răn dạy
Hiểu đâu nhất thời
Đâu là vạn đại
Than ôi !
Cái khôn mới hôm qua
Cái khôn mới hôm qua
Hôm nay bỗng trở thành cái dại
Quay lưng với đời ư ?
Dòng đời cuồn cuộn
Dòng đời cuồn cuộn
Biển đời lợn cợn
Bảy đục ba trong
Quay mặt với người ư ?
Mặt người sắc nhọn
Mặt người sắc nhọn
Biển người sao mà ghê rợn
Đua chen hôi lợi bòn danh
Đâu dám ví mình với Đào Uyên Minh
(*)
Tụng Quy khứ lai từ
Cứ ngỡ chính mình đang u hoài cảm
thán
Ngộ dĩ vãng chi bất khả gián
Tri lai dã chi khả truy (**)
Hề ! Mời quá khứ nâng ly
Hề ! Mời vị lai so đũa
Ta như kẻ lỡ thời
Giỏi giang gì mà tri với ngộ
Chỉ biết hôm nay giày rơm áo cỏ
Vinh danh quân tử cố cùng ! (***)
*
Ba mươi năm bổng bồng bông…
Ngơ ngác quay về gia hương cố thổ
Lá tre lợp
dày mái cỏ
Bão giông
quằn quại mao lư
Bao nhiêu
năm ta vẫn còn ngu
Sáu mươi
tuổi chắc gì không càn rỡ
Dẫu đọc hết
một trăm bồ chữ
Vẫn thua đau
một đứa lòn trôn
Đứng giữa
chợ chiều sao nhớ chị khoai môn
Bỗng thương
năm xưa cô láng giềng thuần phác
Lướt thướt
mây trôi
Dập dờn tóc
bạc
Một mình ta
!
Như bóng ma
nhô lên từ đêm thiên cổ
Một mình ta
lơ ngơ chôn nỗi niềm ly gia biệt thổ
Nền nhà xưa
mọc lên nấm mộ
Chữ đề bia
tức tưởi tím bầm :
Ghê thay ! Thiên địa phong trần
Ghê thay ! Thiên địa phong trần
Nơi đây… yểu mệnh thanh-xuân-một-người !
tháng 11 -
2005
(*)
ĐÀO TIỂM (365 – 427) tự UYÊN MINH người đời Đông Tấn, Trung Hoa. Ông làm huyện
lệnh ở Bành Trạch, chán cảnh lòn cúi quan trường, than thở “ta đâu phải chỉ vì
5 đấu gạo (tức lương bổng) mà phải khom lưng ư ?”, bèn trả áo mão cho triều
đình, lui về quê ẩn cư, viết bài Quy khứ lai từ để bày tỏ chí hướng. Người
đương thời rất ngưỡng mộ sự cao khiết của ông, tặng ông danh hiệu Tĩnh Tiết
Tiên sinh.
(**)
Hai câu nầy trích trong Quy khứ lai từ. Nghĩa : nhận ra chuyện dĩ vãng là không
thể ngăn lại được, biết việc tương lai thì có thể đuổi theo.
(***)
Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng nhi lạm hỷ !
(Khổng Tử - sách Luận Ngữ)
Người quân
tử cố chịu đựng với sự khốn cùng; kẻ tiểu nhân gặp khốn cùng thì làm điều tham
lạm
7.
SÓNG
VỖ
từ khi mưa
nắng đổi thay
đất trời dị biệt gió mây bất đồng
người bờ Tây - ta bờ đông
ngồi nghe sóng vỗ bạc lòng ngày đêm
giờ này phương ấy nắng lên
ở đây ta đốt ngọn đèn soi ta
giờ này phương ấy nắng tà
ở đây thao thức tiếng gà tàn canh
nằm mơ biển ngọt dỗ dành
tỉnh ra tâm sự kết thành muối khô
từ khi Tý Ngọ khác giờ
đêm không đồng mộng đành mơ... mộng ngày
lòng ta uống gió mà say
tan ra cồn khói đảo mây chập chờn
biển sâu? ly biệt sâu hơn
muôn đời sóng vỗ mỏi mòn bến không
mỏi mòn tiếng sóng nghe chung
bờ Tây tóc rụng... bờ Đông bạc đầu!
đất trời dị biệt gió mây bất đồng
người bờ Tây - ta bờ đông
ngồi nghe sóng vỗ bạc lòng ngày đêm
giờ này phương ấy nắng lên
ở đây ta đốt ngọn đèn soi ta
giờ này phương ấy nắng tà
ở đây thao thức tiếng gà tàn canh
nằm mơ biển ngọt dỗ dành
tỉnh ra tâm sự kết thành muối khô
từ khi Tý Ngọ khác giờ
đêm không đồng mộng đành mơ... mộng ngày
lòng ta uống gió mà say
tan ra cồn khói đảo mây chập chờn
biển sâu? ly biệt sâu hơn
muôn đời sóng vỗ mỏi mòn bến không
mỏi mòn tiếng sóng nghe chung
bờ Tây tóc rụng... bờ Đông bạc đầu!
2005
8.
HUẾ NGÀY VỀ
Ngày về - về Huế - Huế xưa
Về em xuân muộn anh vừa chớm thu
Đưa nhau ra bến sa mù
Lơ ngơ kỷ niệm chần chừ bước theo
Lòng em đẩy nhẹ mái chèo
Trôi đi… trôi với bọt bèo lòng anh
Đưa nhau qua mấy cửa thành
Màu rêu bất tuyệt còn xanh não nùng
Xưa chờ em
cửa Chính Đông
Anh in vào đá nỗi lòng héo hon
Xưa tìm em
cửa Hiển Nhơn
Đá câm gạch
lạnh rêu mòn dấu tay…
Sao lòng
nghèn nghẹn nước mây
Trôi đi…
trôi với tháng ngày mù sương
Đưa nhau qua
những con đường
Thâm u lá
rụng cuối vườn tịch liêu
Xưa em guốc
mộc khua chiều
Giấu trong
tà áo ít nhiều vu vơ
Anh qua cửa
Phủ đứng chờ
Chiều em về
muộn rêu mờ dấu chân…
Sao lòng gợn
sóng bâng khuâng
Mây trôi
nước lại ngập ngừng chưa trôi
Trôi đi… bèo
bọt một thời
Mái chèo tâm
sự rã rời lòng nhau
Đưa anh lên
ngọn giang đầu
Chia ly ngày
ấy rầu rầu Huế mưa
Sông Hương
no nước căng bờ
Tim anh cuồn
cuộn… lững lờ tình em
Tình ơi
không nặng sao chìm
Trăm năm
rười rượi nằm im đáy lòng…
Rồi thôi,
gió bụi mịt mùng
Cuốn em ra
khỏi khuê phòng đài trang
Rồi thôi,
nước mắt lỡ làng
Vùi trong
vạt áo vô vàn tiếc thương !
Ngày về lặng
khói im sương
Về trong Huế
mới buồn buồn Huế xưa
Về em ngấn
lệ chưa mờ
Về anh tay
lạnh thẫn thờ nâng tay
Nhìn nhau
lòng nghẹn nước mây
Hồng nhan em
cạn anh đầy đa truân
Lòng như gợn
sóng bâng khuâng
Chuyến đò dĩ
vãng tần ngần đang trôi
Trôi vô lòng
Huế… Huế ơi !
2000
9.
NHỚ
LÀNG
Dài đêm rả
rích mưa suông
Bỗng đâu dăm
tiếng ễnh ương dội về …
Làng quê ?
Phải tiếng làng quê
Ao khô hồ
cạn não nề kêu mưa
Làng xưa ?
Ôi tiếng làng xưa !
Tiếng trong
tiếng đục mấy mùa nước nôi
Lòng tôi ?
Bao tiếng lòng tôi !
Tiếng câm
tiếng nghẹn một thời tang thương
Mấy mươi năm
ở phố phường
Đêm nay nghe
tiếng ễnh ương nhớ nhà
Nhớ làng vời
vợi xót xa
Nhớ quê muôn
dặm chắc là đang mưa
Thấm lòng
bùn đọng nước chua
Ẽnh ương đâu
biết … tôi vừa bật kêu
2006
PHẠM NGỌC LƯ
(1946-2017)