Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi
thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những
thủy chung của lòng mình. Ði xa Huế, tôi vẫn nhớ Huế. Và có lẽ cho đến bây giờ,
tôi mới nhận ra tôi đã yêu Huế vô cùng. Mặc dù sau đó, Nha Trang là thành phố
tôi đã lớn lên và cũng đã đi cùng nó với nhiều kỷ niệm. Ở đây tôi muốn ví Huế
là tình yêu vỡ lòng, tình yêu đầu đời và cũng là thứ tình yêu lớn của một đời
người. Nha Trang là tình yêu thứ hai và cũng là tình yêu cuối.
Huế, nơi tôi ra đời là một nhà thương lớn
ở bên cầu Gia Hội. Nhưng không phải vì vậy mà tôi đã yêu Huế hết lòng đâu. Tôi
yêu Huế có lẽ vì mùa đông ở đây buồn lê thê, buồn đứt ruột. Thành phố như chịu
tang, muồi mẫn trong tiếng khóc không muốn dứt. Mưa rơi và mưa rơi suốt ngày
chao ơi là da diết. Huế đúng là xứ mưa dầm dề nên không trách dân Huế của tôi ướt
át . Mưa nhỏ hạt, mưa lớn hạt, mưa ngày đông, mưa tháng hạ... Mưa nhức nhối,
mưa tối tăm mặt mũi... Tôi nhớ chiều chiều đi học về, tôi hay chạy lại bên mạ
tôi ké bàn tay lạnh của mình vào cái lò hấp đan bằng tre, với những viên than hồng
ấm áp. Buổi chiều ở Huế vẫn là những ám ảnh đeo đẳng trí nhớ tôi thật dài lâu.
Tôi đã trôi qua nhiều buổi chiều nơi này nơi kia trên "quê hương nước ngọt
đồng xanh" (xin sửa lại câu thơ: "quê hương anh nước mặn đồng
chua" của Chính Hữu). Nhưng phải công nhận chưa có một buổi chiều nào lắng
đọng và yên tĩnh như thế. Ngay cả mặt nước dưới cầu Trường Tiền "sáu vài
mười hai nhịp" cũng phẳng lặng và có vẻ gì u tịch lạ lùng.
Tôi vẫn còn giữ rất đậm hình ảnh khoảng
trời nước lấp loáng từng vũng đỏ như ửng ráng hồng của con sông Hương. Từng
vũng đỏ có khi lan thành từng vòng đỏ gợn trên quãng sông xanh. Như đôi mắt kỳ ảo
của những người say. Ðứng dừng lại trên cầu nhìn xuống, tôi nghĩ có một sức hút
vô hình nào đó vừa làm người ta ngẩn ngơ đến khựng người, vừa làm người ta muốn
nhảy xuống sông ôm trăng kiểu Lý Bạch. Tôi không nói quá đâu. Có một cái gì đó
tôi không diễn tả được. Bây giờ nhớ lại, tôi bỗng nghĩ như thế thôi.
Nhớ đến Huế không phải tôi chỉ nhớ đến tô
bún bò cay xè tuyệt vời của mụ Rớt, hay những ly chè bắp ngọt cả tuổi thơ tôi ở
xóm Cồn. Những buổi chiều được theo ba tôi đèo qua Cồn Hến, tôi vẫn còn chưa
quên màu khói cơm chiều vướng vất lũ tre trúc bên kia sông vắng. Ba tôi bảo dân
tình của làng đảo này chất phác, hiền hòa, quanh năm vui với mẻ cá con sông và
những buổi cơm chiều sớm sủa nhất nước. Quanh đâu đó vẳng tiếng chuông chùa thê
lương và người ta bắt gặp một vài cái am hoang phế. Hình như vẻ đẹp ở đây là vẻ
đẹp tàn tạ khói sương và cũng chính vì thế nó đã trở thành những gợi nhớ u hoài
trong tôi.
Lạ thật, cứ nghĩ đến Huế là tôi khó quên
những vọng âm từ quá khứ của những tiếng hò khoan ai oán ở bến Vân Lâu, những
điệu Nam Bình Nam Ai rên rỉ dù tôi chỉ được nghe vỏn vẹn một lần. Những điệu hò
não ruột ấy đã ăn sâu vào tưởng nhớ tôi, như lần nào duy nhất được du thuyền
trên dòng Thương Bạc với người bà con từ Sài Gòn ra chơi. Huế có tiếng hò ru
con buồn thúi đất như cơn mưa rả rích. Ðặc biệt vào những mùa đông nằm nghe mưa
rơi lộp độp trên máng sối, đâu đó từ hàng xóm vẳng tiếng à ơi là nước mắt có thể
trào ra được. Nhất là với những ai không còn mẹ.
Không hiểu tại sao tôi lại nhắc đến Huế
dài dòng vậy. Có lẽ tôi vừa phát hiện ra Huế chính là nơi dạy cho tuổi thơ tôi
hậu quả đau thương của chiến tranh, mà tôi vẫn không thôi yêu Huế. Dạo đó, tôi
nghe người lớn lúc nào cũng nói về chiến tranh một cách cay đắng. Còn tôi, tôi
chỉ lờ mờ cảm thấy đêm sẽ bớt yên tĩnh hơn với những tiếng đại bác từ xa ùng
ùng vọng về. Tôi cũng không hề hay biết có những hạng người say mê chiến tranh
nhằm thỏa mãn niềm tự hào của người hùng cách mạng...
Dạo xưa, gia đình tôi khá sung túc với
ngôi nhà xinh xinh ở ngay bờ An Cựu. Quê tôi ở đó mà tôi cũng không hiểu rõ tại
sao người ta bảo "sông An Cựu nắng đục, mưa trong" mới lạ chứ. Tôi chắc
như bắp là hồi đó ngôi nhà tôi ở gần hồ rau muống xanh um. Sát bên hồ có căn
nhà nhỏ với cây trứng cá lúc nào cũng đông lũ con nít xúm xít. Ở đó là một xóm
đạo. Chỉ có duy nhất gia đình đạo Phật của tôi tự nhiên chen vào. Khi Huế bắt đầu
có những cuộc biểu tình đẫm máu, hết Phật Giáo rồi Công Giáo giăng đầy những khẩu
hiệu, tôi đọc rõ nét mặt u uất, khiếp sợ của ba mạ tôi từng ngày. Lâu lâu lại
nghe đụng một vài trận đánh vào bót Cảnh Sát An Cựu làm đời sống rờn rợn.
Giữa tình hình xốn xáo ấy, em ruột của ba
tôi là chú Bê phải tạm gác công việc đồng áng, lo khăn áo hớt ha hớt hải lên phố.
Chú Bê là em kế, suốt đời làm ăn lam lũ,
đầu tắt mặt tối vẫn không đủ ăn vì nhà đông con. Ba tôi chê vợ chú háu đẻ như
gà, hễ ngửi mùi đàn ông là dạ chửa không kịp thở. Dù nghèo, chú Bê đi đâu ra khỏi
nhà cũng tươm tất một cách cố gắng. Vợ chú thuộc loại đảm đang, ngày ngày ngược
xuôi mò cua bắt ốc ra chợ bán. Con cái lớn nhỏ tự đùm bọc thương yêu nhau . Tụi
nó thổi cơm, bế em rất nghề.
Chú tôi vốn là con người vô tâm, đặt lưng
xuống là ngáy khò không chút suy nghĩ. Ba tôi bảo đại bác có ầm ầm về ngay
thành phố chắc chú cũng chả bận tâm. Của không tội chú cũng có lo đó nhưng quên
đó. Chú quan niệm cuộc đời chết sống có số. Mọi sự đã có ông Nam Tào trên thiên
đình lo hộ cuốn sổ sinh mệnh ấy. Trời kêu ai nấy dạ, lo làm gì cho mệt xác. Vì
thế trông chú tôi nhiều khi có vẻ yêu đời một cách kỳ cục. Ðời có gì đáng yêu
đâu, nhất là đời trong cảnh giặc giã. Con cái lại nheo nhóc bữa đói bữa no, vậy
mà chú vẫn hồn nhiên nhẫn nhục với cuộc đời. Quan niệm lạc quan quá đỗi của chú
đôi khi làm ba tôi tái tê. Chuyện, đời của mình mà chú cứ giao hết cho ông Nam
Tào giữ gìn. Chú làm như không ai có quyền năng cứu vớt được cho mình điều gì cả.
Những ngày tháng mình đang có mặt vậy đâu còn thuộc về của mình nữa. Buông xuôi
và chấp nhận làm nụ cười không lúc nào tắt trên môi chú tôi một cách dễ dãi.
Nhiều khi tôi nghĩ tại sao có những người phải tự làm khổ mình với những quan
niệm rắc rối về hạnh phúc. Cứ đơn giản như chú tôi, hạnh phúc chỉ thu hẹp trong
phạm vi miếng cơm là yên chuyện. Mình khỏi nợ nần nhiều thứ của đời sống và đời
sống cũng chẳng có dịp lên tiếng đòi nợ mình. Nói thì nói vậy chứ tôi thấy bản
tính vô lo của chú tôi không phải ai cũng tập được đâu. Chú tôi phải đi qua
không biết bao nhiêu thăng trầm dâu bể rồi đấy.
Càng hiểu như vậy, tôi càng ngạc nhiên thấy
chú tôi che giấu niềm đau trong xương tủy của mình thật giỏi. Ðã bảo chú tôi
nghèo lắm, như vậy đáng ra cái nghèo cũng đủ làm mặt con người méo mó rồi. Ðằng
này chẳng bao giờ gia đình tôi thấy chú hé răng xin xỏ hay ngỏ ý mượn tiền mượn
bạc của ai. Chú có hai bộ đồ thay đổi mưa nắng để mặc ở nhà, một bộ đồ
"vía" để ra đường, vậy là quá đủ. Chả là ba tôi mới khám phá ra và tặng
thêm chú một hai bộ mặc ở nhà để tiện việc giặt giũ. Chú lúc nào cũng cười xuề
xoà từ chối làm ba tôi sợ người nghèo thường giàu tự ái, mặc dù họ thường an phận.
Thật tình không phải chú tôi tự ái gì với ông anh của mình đâu, nhưng có lẽ chú
tôi vẫn cảm thấy đủ là đủ. Nếu bảo thiếu thốn thì có cả khối điều thiếu thốn
ray rứt hơn nữa.
Con người chú tôi như vậy đó. Tuy nhiên
hôm nay vừa bước vào nhà, chúng tôi đã nhận ngay nét mặt khác thường với nụ cười
cố tạo trông méo mó tội nghiệp của chú liền. Chú Bê đi xẹt vào nhà như cái tiêm
pháo sắp nổ. Miệng chú ào ào như nước trong máy rỉ hư lâu ngày bỗng được tuôn
chảy:
- Anh ươi anh, ở nhà có răng không? Chao
ui, nghe trên tỉnh ni nỏ có chỗ mô mà yên cả. Tụi nó tập kích dữ dội nơi căn cứ
Mỹ ở Mỹ Thủy, rồi đồn Măng Cá Măng Kiếc gì đó và tới cả bót Cảnh Sát ngay cả An
Cựu này nữa. Em lo quá, thất kinh cả hồn vía. Dưới quê em đâu đến nỗi chi.
Nói xong một hơi, chú tôi mới bẹo má tôi
một cái, cười tươi hơn. Chắc chú thấy cả nhà tôi bình an vô sự. Tôi khoe với
chú:
- Lâu lâu cháu được nghỉ học, ở nhà chơi
đó chú.
Ba tôi tiếp:
- Ba vụ bắt bớ, biểu tình, đình công bãi
thị, bãi khóa... con cái cứ tưởng là sướng lắm. Nhưng mà chú cứ ở dưới làng,
lên đây làm chi cho mệt.
Chú Bê quay sang mắng yêu tôi: "Cha
mi, con gái mà lười. Mai mốt lấy dôn mần răng". Rồi tự nhiên mặt chú sầm lại
như trời đang nắng bỗng cơn giông từ đâu kéo tới, xám nghịt:
- Có ai vô phúc như mấy đứa em mi ở dưới,
đứa lớn chồng ngồng cũng nỏ học được một chữ cái.
Hóa ra chú tôi vẫn có niềm lo lắng âm thầm
dành riêng cho con cái. Con người chứ có phải cây cỏ trên rừng đâu mà không biết
nhói tim. Con vật cũng còn biết tỏ ra che chở cho giọt máu nó.
Mạ tôi chêm vào:
- Ðã bảo chú cho hai đứa lớn lên đây bác
trai nó lo bớt cho mà cứ dùng dằng mãi. Thêm đũa thêm chén, có chi mô mà lo.
Chú tôi buông thõng một câu xanh rờn:
- Anh chị lo tản cư đi chỗ khác là vừa chứ
hơi sức mô lo cho anh em tụi nó.
Ba tôi nhăn mặt:
- Mần chi mà phải tản cư chớ? Ở mô bây chừ
mờ không có giặc giã loạn lạc. Chú này giỏi lo ghê a tề.
Tiếng của chú Bê trầm trầm đều đều:
- Anh không thấy ở đây đang có những dấu
hiệu biến động rõ ràng răng? Phải lo sửa soạn chạy loạn chứ không có cà tửng được
mô.
Ba tôi lên giọng:
- Chú thấy xung quanh mình có ai lục tục
mô nờ?
Chú tôi nói như một điềm gỡ:
- Ðợi thiên hạ lục tục kéo nhau, khi nớ
chắc Huế đã tan tành xí quách hết rồi. Em nói thiệt, em mà như anh, em dẫn vợ
con đi chỗ khác lâu rồi. Nội ở cái xóm đạo này cũng đủ tởn. Cần lao, cần vị chi
nghe bắt nhức đầu.
Giọng ba tôi xìu xuống thấy rõ:
- Chú tưởng đi mô cũng dễ lắm he răng?
Chú tôi cười hăng hắc:
- Không khó, nếu anh nghĩ không nơi mô
cái nhà là nhà của ta cả.
Ba tôi có vẻ tiếc rẻ:
- Bậy nà, bộ chú quên căn nhà này là thừa
tự của tổ tiên ta để lại răng?
Chú Bê lắc đầu, nhỏ nhẹ:
- Chỉ có mạng sống trời cho mới đáng quí
thôi, anh nờ. Anh chị cứ đi một thời gian coi răng đã. Mọi chuyện vườn tược
nhang khói ngày mô em còn sống, lâu lâu em sẽ ghé qua chăm sóc chu đáo. Em nói
thiệt, hay là anh vô với thằng Thái ở Nha Trang cho có anh có em.
Thì ra tính của chú tôi coi vậy mà thâm
trầm dữ. Chú có những trăn trở lo âu của những diễn viên tài tình trên sân khấu.
Suốt cuộc đời, chú bằng lòng với vai trò của vở kịch đời đưa đến. Chú sẵn sàng
sống trọn vai diễn ấy, dù sau tấm màn nhung, tôi biết gã hề của gánh hát có khi
sẽ giấu mặt xót xa. Chú vẫn đùa đùa với mạ tôi, khi nghe bà nhắc đến một vở kịch
cải lương vừa đi xem ở rạp Hưng Ðạo về:
- Chị tưởng mấy cô đào thương sướt mướt dữ
vậy trên sân khấu, chắc đời họ cũng chứa nhiều khổ lụy bi đát lắm răng? Trời,
sau buổi vãn hát, mấy nường tha hồ leo lên chiếc xe hơi bóng lộn của mấy gã nhà
giàu háu sắc sẵn sàng quì bái dưới chân mình. Tội nghiệp nhất là mấy anh hề phải
lo làm trò mua vui cho thiên hạ, mà lòng dạ ngổn ngang trăm mối. Ðóng tuồng
xong, màn hạ xuống, khán giả ra về, em biết có nhiều anh hề gục đầu khóc. Nào
tiền gạo, tiền củi, con đau, vợ đẻ năm một... chất đầy trong đầu phải lo thanh
toán nợ nần. Ở đó mà cười toe toét, cười pha trò, cười lăn lộn như trên sân khấu...
Nín lặng một lúc, tôi nghe tiếng ba tôi
thở dài thườn thượt:
- Úi chao, răng chú bữa ni bi quan dữ rứa?
Tui mà bỏ Huế, bỏ chú đi à? Trong mấy anh em, kể đến thằng Thái út rục của nhà
mình, tui biết chỉ đặt tin cậy được mình chú. Chú biết ăn biết ở, mà mụ vợ chú
cũng được. Chỉ tội đông con nói hoài không nghe. Chứ chú Thái thì vô tình lắm,
lại cưới phải mụ vợ không biết điều là hết chuyện. Tui đã nói với chú, đành rằng
mỗi đứa con là cái lộc trời cho. Nhưng đẻ cho lắm vào trong lúc thiếu đầu hụt
đuôi thì không khác gì một cái nợ. Chuyến này chú về ráng lo cho thím cai đi là
vừa.
Chú Bê lại cười xuề xoà:
- Trời sinh voi sinh cỏ. Ðông tụi nó càng
vui cửa vui nhà về sau chớ có chi mô. Bây chừ cũng có cực thiệt nhưng mai mốt
mình về già lại đỡ buồn, anh à.
Không biết lúc đó lòng ba tôi nhen nhúm
những gì, chỉ biết ba tôi đã nói như một linh cảm:
- Tui mà dọn vô Nha Trang, gia đình chú
phải bỏ dưới làng lên đây để vừa trông coi nhà cửa thừa tự vừa có dịp lo cho
con cái đến trường đến lớp đàng hoàng. Ở xóm này có lớp học đêm của nhóm sinh
viên thiện chí mở ra cho mọi trình độ, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Tui hồi trai
trẻ đã đi tứ xứ rồi, thả vô Nha Trang hay Phan Rang, Phan Rí... cũng chẳng lạ
cái lạ nước. Có điều mình đã lỡ theo bước ông Nguyễn Hoàng nghe lời cụ Trạng
Trình chọn Huế rồi. Không những nó là quê cha đất tổ đã đành, nó còn có những tội
nghiệp chịu đựng và da diết lắm thê. Bỏ thì thương, vương thì tội là vậy.
Chú Bê lại cười như con nít:
- Em biểu anh đi, anh lại vác đầu em vô
cái rọ. Em ngán xóm đạo ồn ồn ào ào này lắm.
Ba quay sang mạ ra dấu:
- Thôi, chú đi đường xa lên chắc đói bụng
lắm rồi. Ðể dọn chén đọi mời chú ăn tạm cái chi chớ. Uống, uống tí trà kẻo nguội
chú.
Chú Bê bỏ điếu thuốc Cẩm Lệ đang vấn dở
xuống, cầm chén trà nhâm nhi từng ngụm một:
- Ăn uống vẫn còn tràn hông đây. Sáng sớm
dậy, vợ em để sẵn một đống cơm ém trong mo cau từ tối hôm qua. Em ăn một chặp với
muối sả rồi mới ra bến đi đó chớ.
Mạ tôi nhỏm dậy:
- Răng được. Chú ni khi mô cũng mần khách
dữ. Cơm thường gặp chi ăn nấy, chứ có chuẩn bị đãi đằng cao lương mỹ vị chi mô
nờ. Có nồi cá thệ kho rim với nồi canh mướp đắng dồn tôm thịt, để tôi đi vò chút
gạo là xong ngay. Chú với anh Chương chịu mướp đắng lắm mà. Tụi nhỏ nhà này chỉ
khèo cái nhân ở trong, còn thì bỏ đó. Lâu lâu tui mới nấu món này, người Nam gọi
là trái khổ qua, vậy là chú trúng tủ rồi. Ăn, ăn hỉ. Ðừng mần khách, tui ghét lắm.
Chú Bê thành thật hơn:
- Phiền chị quá. Chị làm tui bắt đói bụng.
Chỗ anh em chị nói tui mần khách, ốt dột chi tề.
Không ngờ đó là buổi cơm cuối cùng của
chú Bê với gia đình tôi. Bữa cơm chú hồn nhiên nhai ngon lành một mình, vì cả
nhà vừa ăn trưa xong. Ba mạ tôi thỉnh thoảng gắp bỏ vào chén chú vài miếng đồ
ăn.
- Gắp đồ ăn đi chớ chú. Ăn cơm trắng
không hà. Ba mạ tôi thi nhau mắng yêu chú.
Mỗi lần như vậy, tôi thấy hai mắt chú
long lanh đầy vẻ cảm động. Và chú lại khỏa lấp vẻ lúng túng ấy bằng những tiếng
cười rang rảng.
Trong lúc ba tôi quên ngủ trưa chuyện vãn
với chú, mạ tôi đội chiếc nón bài thơ đon đả đi nhanh ra chợ.
Mạ tôi mua gởi cho lũ con chú nào mè xửng
Song Hỉ ở cuối phố Phan Bội Châu. Nào kẹo cau trong như gương lẫn với lớp bột mỏng
trắng phau. Nào kẹo đậu phụng béo ngầy ngậy những hột tròn nguyên vỏ, sánh
trong lớp đường ngào hấp dẫn trải lên lớp bánh tráng giòn tan. Toàn những món
ngọt ngào gợi thèm của tuổi thơ tôi. Kẹo mạch nha và kẹo gừng thuở nhỏ tôi
không mấy mê thích vì dính răng và cay miệng. Có lẽ biết ý con nít nên mạ tôi
đã không mua cho con chú Bê mấy thứ kẹo đó.
Chưa hết. Mạ còn tặng thím tôi mấy xâu hột
sen Huế để nấu chè ăn cho mát, và phần chú Bê một ít thuốc Cẩm Lệ hảo hạng.
Chú tôi cám ơn rối rít và xin về ngay kẻo
vợ con mong. Nhất là chú còn ra bến xe để chạy về kịp chuyến đò chiều. Cũng phải
qua hai ba cửa ải nên tôi đoán chắc chú Bê hôm đó về đến nhà trời chạng vạng tối.
Chiều hôm sau, vợ chú nhờ mấy con buôn
đem cái tin khủng khiếp oan nghiệt nhất đến với ba tôi. Thoạt đầu nghe tin chú
Bê đạp mìn chết ngay buổi sáng ra đồng làm việc thường nhật, ba tôi lặng người
đi một giây rồi bỗng ôm mặt khóc ré lên như đứa trẻ bị giựt phăng bầu sữa mẹ.
Không, tôi nghĩ chắc chắn tiếng khóc thảm thiết hơn nhiều. Một đứa trẻ dù háu
ăn cách mấy, nét mặt cũng không đến nỗi sững sờ và đau khổ như vậy. Ba tôi vừa
thút thít vừa kể lể trong cơn xúc động mạnh:
- Trời ui, chết chi mà chết lẹ dữ rứa. Mới
hôm qua anh em mình còn ngồi đây nói chuyện tầm phào.
Lời nói báo trước niềm trăn trối. Lời nói
hôm qua đã thuộc về quá khứ hôm nay. Hình ảnh hôm qua đã thuộc về một đời sống
khác. Lúc chú Bê đến thăm và lúc chú Bê từ biệt thành kỷ niệm. Cách xa chỉ một
ngày ngắn ngủi, những người thân thương của mình có thể trở thành dĩ vãng. Chú
Bê rời khỏi cánh cửa của căn nhà tôi hôm qua là cắt ngang mảnh hiện tại. Trong
này miếng hiện tại là khuôn mặt bùi ngùi giọt ngắn giọt dài của ba tôi, là nỗi
nhớ của những người không với theo được cánh cửa đã làm thành cách ngăn ấy. Có
nghĩa gì đâu, dù mới đó, rõ ràng đã thuộc về thời gian cũ.
Chú Bê chết. Máu thịt bầy nhầy, xác thân
không còn nguyên vẹn. Trong một buổi sớm mai, trong một bình minh đẹp. Hai mắt
chú nghe nói vẫn bàng hoàng mở lớn. Chú chết không nhắm mắt. Tôi đoán chắc chú
Bê tự hỏi làm sao chiến tranh nỡ nhẫn tâm ngay trên những cánh đồng xanh màu hy
vọng vươn lên. Làm sao máu người nông dân nhuộm đỏ từng giọt mồ hôi nhọc nhằn
có thể hồi sinh được mùa lúa chín. Làm sao những giọt nước mắt của vợ con chú
có thể tưới nở được những cây lúa mới đơm bông. Làm sao chỉ có chú mới gặp nỗi
tình cờ oan trái đạp trái mìn nổ. Làm sao không nơi nào trên quê hương nhỏ bé
này được yên cả, để những người dân hiền hòa suốt đời lam lũ như chú vẫn còn
chút thật thà mộng mị "dưới quê em đâu đến nỗi chi" .
Chú Bê chết kể như yên thắm phần chú đi,
nhưng hình ảnh đang mang thai ba tháng với lũ con nheo nhóc của thím bưng mặt,
lùi lại vì hoảng sợ không muốn tin rồi bổ nhào xuống trên xác chú vẫn làm người
tôi run lên mỗi lần nhớ lại. Tôi thầm phục sự can đảm chịu đựng phi thường của
người đàn bà ấy. Nếu là tôi, chắc tôi đã bất tỉnh chết theo chú ấy rồi.
Thật ra thím tôi cũng đã ngất đi đó chứ.
Mọi sự được lòng thương hại của bà con lối xóm xông xáo mỗi người mỗi tay. Người
ta đoán chú tôi đã chết ngay sáng sớm, nhưng mãi đến quá trưa con cái đợi hoài
không thấy chú về ăn cơm, thằng con lớn mới phát giác sự rủi ro ấy đầu tiên. Cả
lũ con chạy ùa đi gọi thi'm, đứa lớn cõng đứa nhỏ, đứa nắm tay đứa ôm chặt mẹ
chúng như sợ bị ai cướp luôn niềm trông cậy chót, đứa mếu máo, đứa lắp bắp kể
rõ sự tình. Tưởng chừng thím đã có thể xỉu ngay khi nghe tin, nhưng sau đó người
ta mới phải giựt tóc mai, bôi dầu cù là lên màng tang thím ở chỗ cánh đồng, nơi
bên cạnh máu trên người chồng thím đã ngả màu tanh tưởi đến mời gọi lũ ruồi nhặng.
Tội nghiệp thím tôi vì quá buồn khổ nên
không giữ được núm ruột ba tháng của chú trong người. Ba tôi chôn chú Bê dưới
chân núi Ngự Bình, vì muốn chú được nằm gần mộ ông nội tôi. Tôi thì thấy cảnh vật
trùng điệp xung quanh gợi lên cái hữu hạn nhỏ bé của con người, và khi đứng lặng
trước ngôi mộ mới đắp của chú, nhìn thẳng lên phía chân trời rực màu nắng quái
lấp ló rặng cây đen, với tiếng súng nổ đâu đó lẫn trong tiếng chim chiều bơ vơ,
tôi biết ba tôi muốn bày tỏ với chú Bê điều gì. Ba tôi đã không còn khóc được nữa,
sau đó. Những giọt lệ khô muốn nói với người chết một lần duy nhất và trọn vẹn,
ba tôi phải bỏ Huế mà đi. Như chú đã bỏ ba tôi mà đi. Như đó cũng là lời nhắn
nhủ sau cùng của chú: "Chỉ có mạng sống trời cho mới đáng quí thôi, anh nờ.
Anh chị cứ đi một thời gian coi răng đã... Em nói thiệt, hay là anh vô với thằng
Thái ở Nha Trang cho có anh có em" .
NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
(Trích truyện dài GIỌT LỆ XÉ HAI)