Cuối
cùng, anh Nguyễn Chí Thiện đã đi đến chặng chót của cuộc đời: tro cốt của anh
được an vị lúc 11 giờ sáng Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012 tại Nhà Thờ Chánh Tòa
Giáo Phận Orange – từng có tên là Nhà Thờ Kiếng – ở Quận Cam, California.
Từ rạng
sáng, trời rả rích mưa!
Mưa,
nhưng không nặng hạt như hôm nghe tin anh mất, khi em vừa lên xe Greyhound từ
Philadelphia đi Washington DC. Hôm đó là sáng Thứ Ba, 2 Tháng 10. Lúc vừa dợm
bước chân lên xe lúc 9 giờ 50 giờ Miền Ðông, nhà văn Trần Phong Vũ giọng hốt hoảng
gọi từ California: “Nguyễn Chí Thiện đang hấp hối trong bệnh viện, anh bị kẹt
xe quá, không biết có còn kịp không!”
Xe dừng
ở trạm Delaware để lấy thêm khách, em gọi về Cali hỏi anh Vũ, anh nấc lên trong
phone, anh Thiện mất rồi, lúc 7 giờ 17 phút sáng!
Mưa
mỗi lúc một tầm tã, suốt dọc đường đi, em cố giấu nước mắt để tránh gây chú ý
cho hành khách trên xe. Gọi báo tin cho những người yêu thương anh Thiện, nhà
văn Nhật Tiến òa khóc và tỏ ý ân hận là đã không biết anh đau bệnh để vào nhà
thương thăm anh.
Không
ngờ anh đi mau như thế. Cách đó mới có 5 ngày, trên đường đi phi trường, em đến
thăm anh tại bệnh viện. Anh vốn dĩ đã khẳng khiu, nay lại đau bệnh nên nhìn anh
gầy trơ xương. Anh ho từng cơn, có lúc phải dùng tay chặn cơn đau nơi ngực. Dù
vậy, anh vẫn thăm hỏi em những chuyện đời thường. Em đùa, hỏi anh có thèm thuốc
lá không, anh bảo: “Làm thế nào được, ho bỏ mẹ đây này.”
“Làm
thế nào được,” câu anh thường dùng khi đối thoại để tả tình huống chịu đựng,
như những lần nhìn thấy anh xiêu vẹo, dáng đi như sắp ngã chúi về trước, em hỏi
sức khỏe anh ra sao, anh bảo “làm thế nào được, đủ thứ bệnh trong người.”
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
Ngồi
sau lưng tài xế nhìn cây quạt nước gạt bắn những hạt mưa mỗi lúc một nặng, em
nhớ anh quá đỗi.
Nhớ
những ngày vừa ra khỏi tù năm 1984, đêm đêm áp sát tai vào chiếc radio tại một
chòi nuôi heo ở Tân Quy Ðông, nghe giọng xướng ngôn viên đài BBC đọc một bài
thơ của tác giả “Khuyết Danh”:
Trong
bóng đêm đè nghẹt
Phục
sẵn một mặt trời
Trong
đau khổ không lời
Phục
sẵn toàn sấm sét
Trong
lũ người đói rét
Phục
sẵn một đoàn quân
Khi
vận nước xoay vần
Tất
cả thành nguyên tử
Nhớ
những ngày đầu tiên nhìn tuyết rơi khi mới từ đảo tỵ nạn sang Mỹ định cư ở
Virginia, cùng nhóm anh em báo Xác Ðịnh đọc từng bài thơ trong tập “Tiếng Vọng
Từ Ðáy Vực.”
Nhớ
những tháng làm việc trong trại tỵ nạn Hongkong năm 88, đem từ Mỹ cả trăm tập
thơ và băng nhạc Phạm Duy phổ thơ để đồng bào trong trại đa số là dân ra đi từ
miền Bắc biết về một nhân cách bất khuất Nguyễn Chí Thiện. Nhớ Giang, một kỹ sư
từ Canada sang Hongkong làm thiện nguyện trong trại tỵ nạn, ước mong, “nếu có
ngày về lại miền Bắc, em sẽ tìm thăm bác Nguyễn Chí Thiện; nếu bác không còn nữa,
em nguyện xây cho bác một nấm mộ.”
Nhớ
lúc làm đài phát thanh VNCR năm 95, phỏng vấn anh khi anh vừa đặt chân đến đất
Mỹ, cảm được tấm lòng của anh với đất nước và con người Việt Nam; kính phục tính
vị tha của anh qua bài thơ tâm huyết “Sẽ có một ngày”:
Sẽ
có một ngày
Con
người hôm nay
Vất
súng, vất cùm, vất cờ, vất Đảng
Trả
lại khăn tang
Xoay
ngang vòng nạng oan khiên
Về với
miếu đường mồ mả gia tiên
Mấy
chục năm trời bức bách lãng quên
Bao
nhiêu thù hận tan vào hương khói
Sống
sót trở về phúc phận an thân
Kẻ
bùi ngùi hối hận
Kẻ
kính cẩn dâng lên
Này
vòng hoa tái ngộ
Ðặt
lên mộ cha ông
Khai
sáng kỷ nguyên Tã Trắng thắng Cờ Hồng.
Hỏi
anh sau 27 năm bị bạo quyền dìm xuống tận đáy địa ngục trần gian, bằng cách nào
lòng anh khoan hòa được như vậy, anh bảo “làm sao được, con rắn cộng sản thì phải
đánh giập đầu, còn dân tộc chả nhẽ hận thù nhau mãi sao?” Hỏi anh về ý thơ “Tã
Trắng thắng Cờ Hồng,” anh nói, Việt Nam hồi sinh sẽ là một hài nhi trong trắng
để tiến tới tương lai, với “tiếng mục đồng êm ả, tình quê bao la, thay tiếng Quốc
Tế Ca bằng tiếng diều cao vút trong chiều tà, trên ruộng đồng quê ta.”
Nhớ
cách hút thuốc của anh, chỉ hút nửa điếu, nửa còn lại dập tắt lửa rồi cất vào
túi áo. Ðứng cạnh anh, mùi điếu thuốc hút dở bốc lên nghẹt thở. Hỏi anh sang
đây thiếu gì thuốc lá mà cứ làm vậy, anh bảo “làm thế nào được, quen rồi, từ dạo
đi tù.”
Nhớ
những lần anh cho đi ăn, anh bảo, chú còn gia đình, đừng tiêu pha nhiều, chứ
anh một thân một mình chả có ai để phải lo lắng, anh trả tiền cho chú. Nhiều
năm Tết, anh còn dúi vào tay em hai trăm bạc để mừng tuổi hai con em. Và cũng
nhiều lần anh đưa tiền cho em để gửi về cho những người đấu tranh dân chủ ở quê
nhà.
Nhớ
Tết năm nào ngồi với anh, nhà văn Vũ Thư Hiên từ Pháp sang và nhà văn Nguyễn
Ðình Toàn, anh đọc cho nghe bài thơ anh viết năm 1966 lúc ở Hà Nội, lột tả được
kiếp người cô quạnh của anh:
Tôi,
một kẻ không gia đình bè bạn
Sống
một mình, bệnh hoạn xanh xao
Chai
nước con, chiếc điếu hút thuốc lào
Chiếc
giường vải, chiếc bàn bằng gỗ cũ
Ðồ đạc
tôi thế là tạm đủ
Cuộc
sống nghèo nàn, không ước, không mơ
Ngoài
thời gian dậy học vài giờ
Tôi
tìm kiếm niềm khuây trong sách vở
Ít
ra khỏi căn buồng con tôi ở
Chủ
Nhật, ngày thường tôi thấy như nhau
Những
khi buồn tôi đem điếu ra lau
Hoặc
khe khẽ ngâm vài câu thơ cổ
Mỗi
tháng một lần tôi mang phiếu sổ
Tiêu
chuẩn thịt, đường một lạng mua ăn
Trong
lòng tôi chỉ một nỗi băn khoăn
Sợ bị
bắt, bị nghi là bất mãn!
Khốn
nạn, cái chế độ kìm kẹp con người! Ðốn mạt, cái guồng máy khiến anh phải sống
như thế!
Sống
ở Mỹ, căn phòng anh ở có tươm tất đôi chút, nhưng cũng chỉ vỏn vẹn cái giường nằm,
cái kệ sách, chiếc tivi cũ, vài xoong nồi chén bát ăn cơm, chiếc điếu cầy được
thay bằng những bao thuốc lá. Thế thôi! Vậy mà vẫn có đứa khốn nạn, đốn mạt dựng
điều bôi nhọ, vấy bẩn vào nhân cách của anh. Hỏi anh sao cứ để chúng yên, anh bảo,
“làm thế nào được, đi rừng gặp thú dữ, chẳng lẽ mở mồm xin chúng buông tha.”
“Làm
thế nào được,” anh Thiện ơi, để nguôi bớt nỗi đau khi anh ra đi! “Làm thế nào
được,” để bớt nhớ dáng cao gầy của anh mỗi khi anh vào tòa soạn thăm em! “Làm
thế nào được” để ghi lại vài lần thảng hoặc thấy anh cười.
Và
“Làm thế nào được,” để thôi bị ám ảnh khi nhớ ánh mắt anh đuổi theo, khi em
chia tay anh lần cuối cùng ở bệnh viện!
ĐINH QUANG ANH THÁI