André Maurois, tác giả Pháp ( 1885-1967 ),
để lại hơn 100 tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại: Nhiều tiểu thuyết tâm lý ( Bernard Quesnay, Climats –
có người dịch là Tâm cảnh -, Terre promise – Đất hứa – Les Roses de septembre –
Những đóa hồng tháng chín -) có cuốn gần với truyện vừa và truyện
ngắn, có khi có
hơi hướng truyện giả tưởng (
Le peseur d’âmes – Người cân linh hồn -, La machine à lire les pensées – Máy đọc tư tưởng - .
Có những tác phẩm nghiên cứu, khảo luận ( Un art de vivre – Một nghệ thuật sống -, Sept visages de l’amour –
Bảy khuôn mặt tình yêu – Au
commencement était l’action – Khởi đầu là hành động…) Ông còn là nhà viết sử với các cuốn Histoire de l’Angleterre ( Lịch sử
nước Anh ), Histoire des
Etats-Unis ( Lịch sử Hoa Kỳ ), Histoire de France ( Lịch
sử nước Pháp ). Ông nổi tiếng nhất với một loạt tác phẩm viết tiểu sử
các văn nghệ sĩ ( Shelley, Byron,
Victor Hugo, George Sand, Balzac, Tourgueniev, Voltaire, Chateaubriand, Marcel
Proust ), các chính trị gia ( Disraeli, Lyautey ), và cả
nhà khoa
học ( Alexandre Flemming
)…
Độc giả Việt Nam đã biết đến Ông với bản dịch ( của Nguyễn Hiến Lê ) các tác phẩm “Thư gởi người đàn bà không quen biết” ( Lettre à une inconnue ) và nhất là “Thư ngỏ gửi tuổi đôi mươi”
( Lettre ouverte à un
jeune homme sur la conduite de la vie ), là tác
phẩm Ông viết
ở tuổi 80, trong đó ông giải đáp mọi thắc mắc của thanh niên về nhiều vấn đề: quan niệm sống, tu dưỡng, hôn
nhân, việc làm,
viết văn, tiêu
khiển, tình yêu, tín ngưỡng…
Ông cũng chính là người đã dịch bài thơ IF nổi tiếng của Rudyard Kipling
ra tiếng Pháp với
nhan đề Tu seras un homme, mon
fils.
Truyện
ngắn “ Hoa violet ngày
thứ tư ” là một
câu chuyện
tình
thơ mộng, lãng
mạn được giới trẻ ưa thích.
- Kìa, bà Jenny,
xin bà hãy ở lại đã!
Trong suốt bữa ăn trưa, bà Jenny Sorbier thật rạng rỡ. Nói thế là nói tài
năng của một nữ diễn viên
mà chuyện kể và chuyện
thực cứ đan xen vào
nhau, kết lại
bằng một nguồn cảm hứng bất tận, như được một nữ tiểu thuyết gia soạn thảo. Các
khách mời của
Léon Laurent tỏ
ra say mê,
phấn khích, bị thuyết phục, tưởng chừng như đang trải qua những giây phút thăng hoa, quên
cả thực tại.
-
Không thể được đâu, đã gần bốn giờ rồi và hôm nay là thứ tư…Ông biết rồi đấy, ông Léon, hôm nay
là ngày tôi phải mang hoa violet đến cho người đã
từng yêu thương tôi.
- Thật đáng tiếc! Léon nói bằng một giọng đứt quãng
cố làm cho không khí thêm phần nghiêm
trọng. Nhưng tôi hiểu sự chung
thủy
của bà. Tôi chẳng dám nài nỉ.
Bà Jenny
ôm hôn các phụ nữ, cánh đàn ông ôm hôn bà,
rồi bà bỏ đi. Bà vừa ra khỏi thì mọi người dồn dập cất lời ngợi khen:
- Bà ấy thật phi thường! Năm nay bà bao nhiêu tuổi rồi hả Léon?
- Cũng gần tám mươi. Thời tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường dẫn tôi đi xem các xuất diễn buổi chiều kịch cổ điển Pháp, bà đã nổi tiếng với vai Célimène (1) rồi.
Mà giờ
thì tôi không còn trẻ nữa.
- Tài năng không kể tuổi tác, Claire Ménétrier nói… Còn
chuyện
những bông hoa violet là sao?
- Cả một thiên tiểu thuyết, có lần bà đã tiết lộ với tôi… mà bà chưa
bao giờ viết lại
đâu nhé… Nhưng tôi không thể đánh liều thuật lại khi vắng mặt bà.
Chuyện suy diễn đồn đại đáng sợ lắm.
- Vâng, suy diễn đồn đại đáng sợ thật.
Nhưng chúng tôi là khách
mời của ông, ông phải
thay bà Jenny cho chúng tôi giải khuây chứ vì bà đã bỏ chúng tôi đi rồi.
- Thôi đành vậy, tôi sẽ cố kể cho các vị nghe chuyện những
bông hoa violet ngày
thứ tư. Tôi chỉ
ngại là chuyện có vẻ tình cảm sướt mướt quá so với thị hiếu thời chúng ta…
- Được thôi! Bertrand Schmitt nói. Thời đại chúng ta đang khát tình cảm. Nó chỉ giả bộ tỏ ra trâng tráo để che giấu sự hoài niệm tình cảm đấy thôi.
- Ông cho là vậy
sao? Thôi được..! Tôi sẽ giải cơn
khát đó vậy… Ở đây các vị đều
quá
trẻ để nhớ lại tiếng tăm lẫy
lừng
của Jenny trong khoảng thời gian
rất
dài. Mái tóc vàng hung cố
tình buông xõa trên
đôi vai tuyệt trần, con mắt
dài đong đưa, giọng
nói sắc, gần như là khó
chịu, rồi bất chợt
vỡ ra vì xúc
cảm, tất cả tôn lên
một vẻ đẹp rạng rỡ, kiêu
kỳ.
- Diễn từ hay quá, ông Léon.
- Vâng, nhưng cũng phải nói như vậy… Dẫu
sao cũng xin cám ơn ông. Bà ấy
đạt giải thưởng đầu tiên
tại Nhạc viện, khoảng năm 1895 và ngay
lập tức được nhận vào
Hý viện Pháp (2) . Ôi, qua kinh nghiệm
tôi cũng biết rằng nhà hát danh tiếng này khó khăn lắm. Các vai diễn trong kịch mục (3)
đều có sẵn tên
người và họ
khư khư giữ lấy. Diễn viên
xuất sắc nhất trong số các vai phụ có khi phải chờ ở đấy đến mười năm mới được giao những vai tốt nhất trong các vở của Marivaux hay Molière. Jenny, vai nữ đẹp quyến rũ đến thế, phải đương đầu
với những nhân vật quyền
uy và kiên
quyết.
Bất kỳ một phụ nữ nào
khác ắt phải đành cam chịu
giẫm chân tại chỗ hoặc là sau hai năm là trôi giạt
sang một đoàn
kịch đường phố (4). Jenny của chúng
ta thì không như vậy. Cô
lao vào cuộc chiến bằng cách huy động tất cả những gì mình
có: tài năng diễn xuất, vốn văn hóa, sự quyến rũ và mái tóc làm say đắm lòng người.
Rất nhanh chóng cô giành
được trong Nhà hát
một vị trí hàng
đầu. Viên quản lý chỉ tin cậy cô. Các tác giả đòi
phải dành cho cô các vai
diễn khó mà họ
nói là chỉ cô mới đảm
đương được. Các nhà phê bình
không ngớt lời
tán tụng cô. Ngay cả Sarcey (5) lừng danh cũng phải buông lời: “ Cô ta có những điệu bộ, kiếu cách làm mê hoặc
đến cả loài cá sấu”
Cha tôi thời đó từng
quen biết
cô bảo tôi là cô
ấy rất yêu nghề, nói đến nghề của mình với ý thức và luôn tìm cách
tạo ra những hiệu ứng mới mẻ và làm mọi người kinh ngạc. Thời bấy giờ, kịch nghệ đang trượt
vào một chủ nghĩa hiện thực có phần ngây thơ. Nếu
như trong một vở nào
đó Jenny phải bị đầu độc mà chết
thì cô sẽ tìm đến các bệnh viện để nghiên
cứu tác dụng của thuốc độc. Còn chuyện biểu lộ tình cảm thì cô tự nghiên
cứu ở chính mình.
Ngay khi đụng đến ngành
nghệ thuật của mình
là cô chỉ ra ngay sự thiếu
thận trọng của một Balzac (6) khi trong tiểu thuyết của mình ông đưa vào những đam mê của cá nhân hay của người phụ nữ ông yêu.
Các vị có thể hiểu được rằng một cô gái tuổi mới hăm hai, đẹp lộng lẫy,
bỗng chốc đạt tới vinh quang ắt
được săn đón như thế nào.
Các bạn đồng nghiệp
muốn thử vận may, rồi các nhà viết
kịch, các chủ nhà băng
nữa. Một trong những người thuộc giới này là ông
Henri Stahl lọt vào
mắt xanh của cô. Chẳng phải vì ông
ta giàu có. Cô sống chung với gia đình và cũng chẳng đòi hỏi gì nhiều. Chỉ vì chính ông ta cũng rất có duyên và nhất là ông đã ngỏ ý sẽ cưới cô… Các vị cũng rõ là hôn
lễ bị hoãn
lại vì bố mẹ chàng trai phản đối. Ba năm sau mới cưới nhau và cũng không lâu bền được vì Jenny vốn thích độc lập tự do, khó hòa hợp với
những câu thúc của đời sống vợ
chồng. Nhưng, đấy là một câu chuyện khác. Chúng ta hãy trở lại với Hý viện Pháp, với thời khởi nghiệp của Jenny… và với những bông hoa violet.
Các vị hãy
hình dung ra phòng
giải lao của các nghệ sĩ vào
buổi tối Jenny diễn lại vở Công chúa thành Bagdad của Dumas con (7). Vở kịch có những hạn
chế và đối với tôi, vốn mến mộ các vở có cấu trúc vững chắc như Gái giang hồ (Le Demi-Monde), Bạn của các bà ( l’Ami des Femmes ), Francillon, thì ông
Dumas thái quá
của vở Người xa lạ
(l’Étrangère)
hay Công
chúa (la Princesse) cũng khiến tôi cười
được. Thế nhưng ai đã
xem Jenny diễn vai này
đều có ý kiến là cô
làm cho vai diễn như thật. Tôi có lần nói điều này với bà Jenny và điều ngạc nhiên là bà cũng tin như thế. Bà cho
biết:” Vào
thời ấy, tôi dễ dàng suy nghĩ như là một
nhân vật chính
của Dumas con và tôi cảm
thấy hơi kỳ cục khi đem phô diễn ra ngoài
ánh sáng những gì diễn
ra trong tôi, trong cõi
sâu thẳm nhất của tâm hồn”. Nên
thêm vào rằng trong vai này
mái tóc buông xõa
và đôi vai trần của cô đều phát
huy tác
dụng. Nói gọn là cô
thật tuyệt vời.
Giờ này
thì cô đang trong phòng giải lao, vào giờ
nghỉ giữa hai màn,
sau tràng pháo tay. Mọi
người vây chặt lấy
cô. Jenny ngồi trên chiếc ghế nhỏ, cạnh Henry Stahl, và đang huyên
thuyên đủ chuyện trong niềm phấn khích của sự thành công.
- Thế là thoát! anh Henry thân yêu… Em đã
trồi lên mặt nước đây này! Cuối cùng em
cũng
thở được… Anh đã nhìn
thấy em cách
đây ba ngày.
Hôm ấy em tệ
hại lắm phải không? … Uỵch! Xuống tận đáy ao luôn. Em
ngạt
thở… Thế rồi, tối nay, hấp! Một nỗ lực vượt bực và em nổi lên được ! Nghĩ xem, anh Henry, Nếu mà em rơi tỏm xuống ở màn cuối, nếu mà em không thể bơi được đến bờ? Ôi, trời ơi,
trời ơi!
Nhân viên
dẫn khách bước vào
đưa cho cô bó hoa.
- Của ai đây? À, của người từ Saint-Loud… Đối thủ của anh đấy, Henri… Làm ơn mang để trong phòng
chờ của tôi.
- Còn có một lá thư nữa, thưa cô, người dẫn khách nói.
Cô mở thư ra đọc và phá
lên cười:
- Của một học sinh trung học…Cậu ta nói là ở trường cậu đã lập một câu lạc bộ
Jenny.
- Câu lạc bộ đua ngựa cũng là câu lạc bộ Jenny, Henry nói.
- Các học sinh làm em cảm động hơn, Jenny đáp. Cậu này còn
kết thúc bằng mấy câu thơ nữa… Nghe này,
anh yêu:
Cuối cùng xin lượng thứ cho bài thơ tầm thường của tôi
Và đừng chê thơ sai vần lạc điệu
Chỉ thay tôi nói lời yêu thương tha thiết
Và nhất là xin nàng đừng nói gì cho thầy hiệu trưởng biết.
Chẳng dễ thương sao hả anh?
- Em
sẽ
trả lời cậu ấy chứ?
- Tất nhiên là không
rồi. Có hàng
chục lá thư như vậy mỗi
ngày. Nếu trả lời hết
sẽ mất công lắm…Nhưng mà điều này làm em yên
tâm. Những người hâm mộ tuổi mười sáu như thế này em sẽ
giữ được lâu.
- Không chắc đâu… Đến ba mươi họ sẽ là những chưởng khế.
- Nhưng mà tại sao chưởng khế lại thôi không ngưỡng mộ
em nữa?
- Còn cái này nữa, thưa cô, người dẫn khách nói.
Ông ta đưa cho cô một bó hoa violet tầm
thường. (8)
- Ôi! Dễ thương quá… Nhìn này, anh Henry…
Không có danh thiếp sao?
-
Không, thưa cô. Người gác cổng nói với tôi là bó hoa được một sinh viên
Bách khoa (9) mặc đồng phục
mang đến
chỗ anh ta.
- Chúc mừng em đó, em thân yêu, Henri Stahl nói.
Làm xúc động “những cái
đầu trường X (9)” này
không phải dễ đâu.
Jenny ngửi thật lâu những bông hoa violet.
- Thơm quá. Chỉ những biểu hiện mến mộ thế này mới làm em vui… Em chẳng thích đám khán giả già dặn
và lạnh lùng đến xem em chết đi lúc nửa đêm cũng như giữa trưa đến Cung điện Hoàng gia (10) nghe tiếng đại bác nổ vậy.
- Đám công chúng nhẫn tâm, Stahl nói. Lúc nào họ cũng như thế… Họ chuộng các trò xiếc… Một nữ diễn viên nuốt được một trăm cây kim sẽ được xem là thành
công rực rỡ!
Jenny cười:
- Còn người nuốt cả cái máy may? Hẳn sẽ là tột đỉnh vinh quang.
Có tiếng la lớn: “ Diễn tiếp đi!” .
Jenny đứng dậy:
- Thôi, hẹn lát nữa! Em đi nuốt một trăm cây kim đây.
Và như vậy đó, theo lời Jenny thuật lại, thiên tình
sử bắt đầu.
Ngày thứ tư kế đó, thêm một lần
nữa, vào giờ nghỉ giải lao, người dẫn khách lại mang đến cho Jenny một bó hoa violet.
- Sao? Vẫn là anh chàng sinh viên Bách khoa chứ?
- Vâng, thưa cô.
- Anh ta trông thế nào?
- Tôi không rõ, thưa cô. Có cần phải hỏi anh gác cổng không?
- Không, cũng chẳng quan trọng gì.
Tuần lễ tiếp theo, ngày thứ tư cô không diễn, nhưng qua thứ năm khi cô đến tập thì thấy có bó hoa violet lần này hơi héo trong phòng chờ của mình. Lúc ra về, cô ghé lại chỗ anh gác cổng.
- Này anh Bernard, bó hoa violet của tôi là sao? Vẫn của anh chàng đó chứ?
- Vâng, thưa cô. Lần thứ ba rồi đó.
- Anh chàng sinh viên đó trông thế nào?
- Anh ấy thật dễ thương… Rất dễ thương.
Hơi gầy, má hõm,
mắt quầng thâm. Chút râu
mép nâu. Kính cầm tay…. Trông ngộ lắm với cây
kiếm bên hông… Thật tình, cô ạ, anh chàng có vẻ si mê lắm rồi. Anh ta trao tôi bó hoa và nói: “ Nhờ gởi tặng cô Jenny Sorbier”, mặt
đỏ bừng.
- Tại sao lúc nào anh ta cũng
đến vào ngày thứ tư?
- Cô không biết sao? Thứ tư là ngày
sinh viên
Bách khoa được phép đi ra ngoài.
Cứ đến thứ tư là các
khu khán đài sau ban nhạc và trên ban công đầy ắp. Mỗi chàng
đều dẫn theo một cô gái.
- Anh chàng của tôi cũng có chứ?
- Vâng, thưa cô, nhưng đó là chị của anh ta. Họ giống nhau đến lạ kỳ.
- Chàng trai tội nghiệp! Nếu tôi bạo một tí, nói thật với anh là tôi
sẽ mời anh ta ít
nhất một lần
ghé lại phòng
chờ của tôi để anh ta có thể
tận tay trao bó hoa cho tôi.
- Điều ấy tôi không dám khuyên
cô. Những khán giả si tình
thế này, nếu ta không để
ý đến, họ chẳng có gì nguy hiểm. Họ ngưỡng mộ các nữ diễn
viên từ xa, trên sân khấu, thế là họ bằng lòng rồi. Nhưng nếu ta tỏ ra quan tâm chút đỉnh thôi thì họ sẽ đeo bám, và thật kinh khủng đó. Được đằng chân lân đằng
đầu vậy mà.
Vâng, thưa cô, cô cứ cười nhưng tôi thì tôi có kinh nghiệm rồi. Tôi ở nhà hát này
đã hai mươi năm nay. Và,
nơi phòng chờ tôi đã nhìn thấy nhiều cô gái si tình… Và những chàng trai gàn dở… Rồi những ông già… Lúc nào
tôi cũng nhận hoa, nhận
thiếp, nhưng để cho họ đi lên,
không có chuyện
đó đâu!
- Anh nói có lý, anh Bernard. Ta phải lạnh lùng, cẩn trọng và tàn nhẫn.
- Chẳng phải là tàn
nhẫn đâu cô, mà là khôn ngoan thôi.
Nhiều tuần lễ trôi qua. Cứ đến thứ tư Jenny lại nhận được một
bó hoa violet tầm thường. Trong nhà hát
mọi người đều biết chuyện.
Một cô bạn nói với Jenny:
- Tôi đã nhìn thấy
anh chàng
Bách khoa của chị…
Anh ta có đầu óc thật lãng mạn. Một chàng trai sinh ra để diễn Badine hay “Người làm bình phong” (le Chandelier) (11 ).
- Làm sao chị biết đó là anh chàng của tôi?
- Tại vì tôi tình
cờ có mặt chỗ
người gác cổng ngay lúc anh ta mang hoa đến và rụt rè nói:
“Xin gởi tặng cô Jenny Sorbier” Thật cảm động. Có thể thấy là anh
chàng khá thông minh, ngại bị chế giễu nhưng không
giấu được sự xúc động. Có lúc tôi thấy tiếc là anh ta không đến vì tôi; tôi sẽ cám ơn và an ủi anh ta… Nên
nhớ là anh ta không đòi hỏi
gì, ngay cả việc gặp
được chị nữa. Nếu ở vào
hoàn cảnh của chị…
- Chị sẽ tiếp anh ta chứ gì?
- Vâng, một lát thôi. Chuyện xảy ra nhiều tuần nay rồi.
Kỳ nghỉ sắp đến. Chị sẽ đi xa… Vậy thì chẳng
ngại bị anh ta đeo
bám…
- Chị nói đúng, Jenny đáp. Thật điên rồ khi xem thường mấy người ái mộ khi họ
đông đúc, trẻ trung, rồi ba chục năm sau mới chạy theo khi bọn họ già hết và chẳng
còn bao nhiêu.
Tối hôm đó, lúc ra về cô nói với người
gác cổng:
- Anh Bernard ạ, thứ tư tuần sau khi
anh chàng Bách khoa mang
hoa đến, anh nhớ
bảo anh ta tự mang lên
cho tôi sau màn
ba…Hôm đó tôi diễn
vở Kẻ ghét đời. Vai diễn của tôi chỉ
cần một bộ trang phục. Tôi sẽ lên
phòng chờ và tiếp anh ta ở đó… Mà không!
Tôi sẽ đợi anh ấy
ở hành lang, dưới chân cầu thang. Hoặc là ở phòng giải lao.
- Được thôi… Cô không ngại chứ?
- Có gì mà ngại?
Mười ngày
nữa tôi đi lưu diễn rồi, hơn nữa chàng trai này được nhà trường quản chặt .
- Vâng, thưa cô. Điều tôi muốn nói là…
Ngày thứ tư sau đó, dù không muốn, Jenny vẫn diễn vai Célimène cho người chưa quen biết, với ý muốn mãnh liệt là làm vừa lòng anh ta. Khi về phòng chờ vào giữa
hai màn kịch, cô cảm thấy
bị cuốn hút, chừng như bồn chồn. Cô ngồi trong phòng giải lao và chờ đợi. Vài người quen thuộc qua lại ở chung quanh. Viên quản
lý đang nói chuyện
với Blanche Pierson, đối
thủ của cô lúc ấy. Nhưng chẳng thấy bộ đồng phục màu vàng
đen nào xuất hiện. Căng thẳng, sốt ruột, cô chạy đến
chỗ người dẫn khách:
- Không ai hỏi tôi sao?
- Không thưa cô.
- Hôm nay là thứ tư và tôi chưa
nhận được hoa violet. Phải chăng Bernard quên
mang hoa lên
cho tôi? Hay là có
gì nhầm lẫn?
- Nhầm lẫn hả cô? Mà nhầm chuyện gì? Cô muốn tôi đến chỗ anh gác cổng không?
- Vâng, anh đi giúp… Hay thôi, khỏi. Lúc về tôi sẽ gặp
anh Bernard.
Cô tự chế nhạo mình: “ Chẳng ra người ngợm gì cả! Suốt sáu tháng trời, ta không hề để ý mấy
đến tình cảm chung thủy kín đáo thế kia rồi bỗng
nhiên, vì sự mến mộ bị xem thường thiếu đi, nay ta lại cảm thấy bối rối như đang chờ đón người yêu… Ôi! Célimène, cô sẽ luyến tiếc Alceste (12) biết bao khi chàng
rời bỏ cô với nỗi buồn phiền!”
Sau buổi diễn, cô ghé lại chỗ người gác cổng:
- Thế nào anh Bernard? Người yêu của tôi ! Anh không đưa anh ta lên
sao?
- Thưa cô, cứ như là chuyện
cố tình. Hôm nay anh ta
không đến… Lần đầu tiên
cô chấp thuận tiếp anh ta: cũng
là ngày thứ tư đầu tiên từ sáu tháng nay anh ta không đến.
- Thật lạ kỳ! Anh có nghĩ là ai đó báo cho anh ta và anh ta ngại?
- Chắc chắn là không, thưa cô…Không ai biết là cô và tôi…Cô không nói gì?...Tôi cũng không…Thậm chí tôi cũng không cho vợ tôi biết nữa.
- Vậy thì anh
giải
thích thế nào?
- Tôi không giải thích được, thưa
cô…Có những sự tình
cờ…Có lẽ anh ta nản?...Hay
là anh ta bệnh? Thứ tư tới ta sẽ biết.
Nhưng rồi thứ tư sau đó chẳng ai thấy
chàng Bách khoa mà hoa violet cũng không.
- Làm sao bây giờ, anh Bernard? Anh có nghĩ là ta nhờ đám bạn của anh ta… Hoặc là nhờ ông tướng điều hành trường?
- Nhưng bằng cách nào được thưa cô? Chúng ta không biết cả tên anh ta nữa
mà.
- Đúng vậy… Ôi, buồn quá! Mọi chuyện hỏng hết rồi, Bernard.
- Không đâu cô. Cả năm qua của cô tốt lắm, cô sắp đi lưu diễn; rồi sẽ thành công nữa… Nói cho cùng thì chẳng
có gì hỏng hết!
- Ông nói phải. Tôi là kẻ vô tâm… Có điều là tôi rất yêu
những bông hoa violet ngày
thứ tư.
Ngày hôm sau, Jenny rời Paris; Henri Stahl vẫn tận tình đi cùng
cô. Đến khách sạn nào
cô cũng thấy phòng
mình đầy hoa hồng. Lúc trở về lại Paris cô đã quên mất nhà toán học lãng
mạn của mình.
Phải đến một năm sau cô mới nhận được
một lá thư của ông đại
tá Genevrière
nào đó xin gặp cô vì việc riêng. Thư viết chuẩn mực và nghiêm túc, không có lý do gì để từ
chối lời yêu
cầu được gặp. Jenny mời ông đại tá gặp cô tại nhà vào
một chiều thứ bảy. Ông đến trong bộ thường phục màu đen. Cô tiếp ông với sự lịch thiệp duyên dáng phần do thói quen diễn xuất phần do bản tính, nhưng thái độ của cô, hết sức
tự nhiên, như ngầm nói lên một thắc mắc: “ Không hiểu vị khách chưa quen biết này muốn gì ở cô đây?” Cô chờ đợi.
- Cám ơn cô đã tiếp tôi. Tôi không thể viết qua thư để giải thích mục đích cuộc viếng thăm
này. Nếu như tôi đã tự cho phép xin gặp cô, chẳng
phải là sự đường đột của một
người đàn ông, mà của
một người cha…
Cô thấy tôi mặc trang phục đen. Tôi đang để tang cho con trai tôi, trung úy André Genevrière, đã chết ở Madagascar cách đây hai tháng.
Jenny làm một cử chỉ như muốn nói: “ Xin thành thật chia buồn, nhưng…”
- Cô không biết con trai tôi… Tôi biết điều đó…
Nhưng nó biết cô và ngưỡng
mộ cô… Chuyện
này với cô có vẻ khó tin… nhưng những gì tôi sắp kể đây là sự
thực. Cô là người
mà con trai tôi ngưỡng mộ và yêu
thương nhất trên
đời…
- Tôi sợ là không hiểu được, thưa đại tá… Anh ấy nói với
ông vậy sao?
- Nói với tôi? Không đâu. Nó chỉ nói với chị , đồng thời cũng là bạn
tâm giao của nó. Mọi chuyện
bắt đầu từ cái hôm hai chị
em đi xem diễn
vở Trò chơi của Tình yêu và sự
Tình cờ… Xem về hai đứa con tôi cứ hào
hứng nhắc đến cô mãi:
“ Sự thẹn thùng
tế nhị biết bao”, “ Lời thơ thật là cảm
động…” Và cả
ngàn chuyện khác nữa mà tôi tin là có thật, nhưng thêm vào
đó là nhiệt tình của tuổi trẻ, sự khao khát cái tuyệt đối… Con trai tội nghiệp của tôi đúng là mơ mộng và lãng mạn.
- Trời ơi! Jenny thốt lên, vậy chính là chàng
trai đã…?
- Vâng, thưa cô. Anh sinh viên
Bách khoa mà cứ
mỗi thứ tư trong suốt một năm
mang đến
tặng cô một bó hoa violet chính
là André con trai tôi… Chuyện này cũng do con gái tôi cho biết… Tôi hy vọng là trò trẻ
con này, mà thực
chất là sự
tôn vinh, không
làm cô phật ý. Nó yêu cô nhiều lắm, hoặc có lẽ là yêu
cái hình ảnh nó tạo ra từ
cô… Phòng nó treo đầy ảnh
cô trên tường… Con gái
tôi đã mất công xoay xở để kiếm thêm
nữa nơi các thợ ảnh. Ở trường
bạn bè nó cứ chế giễu nó vì mối tình si này.
Chúng bảo: “ Vậy thì viết
thư cho cô ấy
đi!”
- Và anh ấy
không viết
sao?”
- Có chứ, thưa cô, tôi mang đến đây cả xấp thư chưa bao giờ được gửi
đi, nó mất rồi chúng
tôi mới tìm
thấy.
Ông đại tá lấy từ túi ra một gói nhỏ
trao cho Jenny. Bà ấy
có lần cho tôi xem, nét chữ
nhỏ, phóng túng, khó đọc. Chữ viết của nhà toán
học, văn phong của nhà thơ.
- Xin cô giữ lấy những lá thư này, chúng là của cô… Và xin lượng thứ cho hành động lạ lùng hôm nay… Tôi làm thế này để tưởng nhớ con trai tôi… Trong cái tình cảm mà cô đã gợi lên
cho nó chẳng có gì là thiếu tôn trọng hay là nông
nổi. Với nó cô là hiện
thân của sự toàn
bích và duyên dáng. .Và tôi đoan chắc là André xứng đáng với tình
yêu cao cả của nó.
- Thế thì tại sao anh ấy lại không đòi gặp tôi? Mà tại sao tôi lại không tìm cách
gặp anh ấy
được nhỉ? Ôi, thật đáng trách
quá!
Tôi thật đáng trách quá!
- Cô đừng dằn vặt mình. Cô không thể nào tưởng tượng ra mọi chuyện đâu… Nếu như khi ra trường, André
xin đi Madagascar chắc chắn chỉ vì cô
thôi. .. Vâng, nó đã tâm
sự với chị: “ Hoặc là nhờ xa cách em sẽ thoát khỏi được mối si mê vô
vọng này, hoặc là em sẽ làm nên chuyện
lớn, và lúc đó thì…”
- Nhưng mà tình
cảm thủy chung, kiên trì và kín đáo như thế chẳng phải đã là chuyện
lớn rồi sao?
Và, khi ông đại tá đứng dậy, cô cầm lấy tay ông:
- Tôi tin là mình
đã không làm
điều gì sai, tuy nhiên…Tuy nhiên
tôi cảm thấy ngay chính
mình phải có nghĩa vụ đối với người đã khuất, than ôi,
chưa thỏa nguyện…
Thưa đại tá, xin ông vui lòng cho biết con trai ông được an táng ở đâu… Tôi
xin thề là cho đến khi nhắm mắt, cứ đến ngày thứ tư, tôi sẽ mang một bó hoa violet đến đặt lên mộ anh ấy.
Léon kết luận: Thế đó, đấy là lý
do tại sao mà bà Jenny
của chúng ta, thường được cho là hay hoài
nghi, thậm chí
có người nói là lập dị, vậy mà đến ngày thứ tư là bỏ hết bạn bè, công việc, cả tình yêu
nữa, để một mình
đi đến nghĩa trang Montparnasse, đến bên
mộ người trung úy
chưa bao giờ quen biết…Các
vị thấy là tôi đã có lý khi tôi nói rằng câu chuyện này
quá
đậm màu tình cảm với thời đại chúng ta.
Một thoáng im lặng, rồi Bertrand Schmitt lên tiếng:
Trên đời này vẫn còn điều thơ mộng cho những ai xứng với nó.
THÂN
TRỌNG SƠN
Dịch từ nguyên
tác tiếng Pháp "Les
violettes du mercredi "
_______________________________________________
(1)Nhân vật nữ chính trong vở “Le misanthrope “ – Kẻ ghét đời – của Molière.
(1)Nhân vật nữ chính trong vở “Le misanthrope “ – Kẻ ghét đời – của Molière.
(2)Comédie- Française, còn gọi là Théâtre – Français, thành lập từ năm 1680, có riêng một đoàn diễn
viên – năm 2013 gồm 60 người-
(3)Répertoire – Hiện nay kịch mục của Nhà hát kịch này có đến 3000 vở diễn.
(4)Boulevard:
Nhóm
hài kịch bình dân,
dễ dãi.
(5)Francisque
Sarcey, nhà phê bình kịch nghệ Pháp (1827-1899)
(6)Honoré de Balzac, nhà văn Pháp (1799-1850), tác giả của bộ tiểu
thuyết Tấn trò đời ( la Comédie humaine )
(7)Alexandre
Dumas fils, kịch tác gia Pháp (1824-1895), cũng là tiểu thuyết gia, với tác phẩm nổi tiếng La dame aux Camélias ( Trà hoa
nữ ). Con của Dumas cha (
Alexandre Dumas père)
1802 -1870, tác giả các tiểu thuyết Bá tước Monte Cristo, Ba người lính ngự
lâm.
(8) Tặng hoa violet là cách bày tỏ
tình yêu kín đáo.
(9)Polytechnicien, sinh viên École Polytechnique, trường đào tạo kỹ sư, thành lập năm 1794, trực thuộc Bộ Quốc phòng. Khóa đào tạo của sinh viên
bắt đầu bằng 8 tháng huấn
luyện quân sự. Biệt danh là (trường) X.
(10)Palais- Royal, ám chỉ quảng trường Palais – Royal, nơi có đặt một đại bác nhỏ bằng đồng, kích hoạt
bằng ánh nắng mặt trời, đúng giữa trưa sẽ phát nổ.
(11)Hài kịch của Alfred de Musset (1810-1857)
(12)Alceste, nhân vật nam chính trong vở le Misanthrope ( Kẻ ghét đời ) của Molière.