“Tình
ca, những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một đời người bao giờ cũng
bắt đầu từ một nơi chốn nào đó: một quê hương, một thành phố, nơi người ta đã
yêu nhau. Tất cả mùa màng, thời tiết, hoa lá, cỏ cây của cái vùng đất thần tiên
đó, kết hợp lại làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta. Em đâu
ngờ, anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động ngù ngờ nhất của
những ngày sung sướng đó. Tiếng gió may thổi trên những cành liễu nhỏ, tiếng những
giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua trên hè phố, ngần ấy thứ tiếng động
ngân nga trong trí tưởng anh một thửa thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi,
nhưng một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa Hè háo hức, một
đêm mưa bỗng trở về. Gió cuốn từng cơn nhớ, anh bỗng nhận ra, anh vẫn còn yêu
em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố.”
Nhà
văn Nguyễn Đình Toàn mở đầu như thế, trong chương trình “Nhạc Chủ Đề Tình Ca
Quê Hương” do anh phụ trách hàng tuần vào mỗi tối Thứ Năm trên làn sóng Đài
Phát Thanh Sài Gòn trước năm 1975.
Giọng
Bắc, sang, trầm, buồn, tác giả “Áo Mơ Phai” đã làm say đắm lòng người với hàng
trăm buổi tối “Nhạc Chủ Đề”. Thuở ấy, nhiều người, bận gì thì bận, tối Thứ Năm
cũng phải về để bắt kịp Nguyễn Đình Toàn:“Chiều đang xuống trên đường về, mệt mỏi
giăng mắc quanh tôi, như vòng tay của tình yêu quyến rũ. Sương lam buông kín
trên ngọn cây như khói của buổi chiều đang thắp hương cầu nguyện. Tôi yêu em
như con ong say mật ngã vào lòng bông hoa. Tình yêu giống như cái chết nuốt
trôi tất cả. Trong đám cỏ may, tiếng gió nào đang khóc và trên trời, những đám
mây bay giống như những kẻ bại vong. Chiều trở về trong nỗi tiếc thương. Lòng
ta ta không hiểu nữa là ai thấu hiểu. Hỡi em, tình yêu giống như cái chết, nuốt
trôi tất cả. Đêm bắt đầu trải dài dưới bước chân đi, sao trên cao nín thở đếm
thời gian, trăng ẻo lả bơi trong đêm chìm lặng. Hỡi em, tình yêu giống như cái
chết, nuốt trôi tất cả.”
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn
Một
buổi chiều cuối năm, đến thăm tác giả “Áo Mơ Phai”.
Bước
ra khỏi xe, ngước nhìn lên căn nhà trọ, đã thấy bóng anh hắt qua khung cửa sổ.
Anh nhìn xuống, tôi đoan chắc là anh chỉ thấy thấp thoáng bóng người từ xa. Mắt
anh đã mờ, vì khói bụi cuộc đời – và cả tình người - kể từ ngày thoát khỏi những
năm tháng nghiệt ngã trong nhà tù; rồi đặt chân đến Mỹ.
Căn
nhà trọ một phòng u ám, anh đứng dậy mở cửa, lưng như trĩu xuống vì sức nặng cuộc
đời, lao chao như vừa thoát ra khỏi cái bóng của ngọn đèn vàng vọt trên trần
chiếu xuống bàn ăn.
Trở
lại chỗ ngồi cố hữu nơi cửa sổ, giọng anh yếu, nhưng vẫn còn hơi hướng Nguyễn
Đình Toàn vào mỗi tối Thứ Năm ngày nào. Anh bảo, chán thật, thế mà đã ngoài
“tám bó.” Nghe mà giật mình, thoáng chốc anh đã bước vào tuổi 82.
Nhớ
những buổi tối Thứ Sáu vừa ra khỏi tù năm 1984, trên căn gác nhà bác Dzoãn Quốc
Sĩ, bác gái cho ăn bữa cơm đạm bạc, có anh Nguyễn Đình Toàn, anh Thanh Tâm Tuyền
và anh Duy Trác. Chỉ là kẻ hậu bối hàng con cháu, tôi ngồi hóng chuyện những
tên tuổi lẫy lừng của làng văn, và học được vô số điều trân quý. Giá lúc ấy anh
Toàn đồng ý cùng tôi đào thoát và may mắn như chuyến đi của tôi ít tháng sau
đó, anh đã có thể chữa được bệnh mắt. Hỏi anh sao nhất quyết ở lại, anh bảo,
nghệ sĩ như cái nhau của thai nhi và quê hương như bà mẹ, một khi cái nhau bị cắt
rời khỏi cuống là lúc nguồn nuôi dưỡng trực tiếp đứa bé không còn nữa.
Ngày
chia tay anh ở Sài Gòn, thoắt cái đã hơn 30 năm. Rốt cuộc anh cũng đành phải ra
đi. Hỏi anh, quê hương trong anh bây giờ ra sao, anh nói “tận cùng của tình yêu
chính là nỗi nhớ quê nhà; đôi lứa là quê nhà; hạnh phúc lẫn khổ đau cũng là quê
nhà,” rồi anh cho nghe một đoạn anh từng đọc năm nào nơi quê hương giờ đây đã
cách xa nửa vòng trái đất: “Ngày đã tàn nhưng mưa chẳng chịu ngừng giây lát,
chiều âm u như giấc ngủ không yên. Những cành tre nào lạ ngọt dưới những giọt
nước u sầu. Quê hương ở phương nào trong bốn phương mù mịt. Tiếng chim kêu buồn
trên những cành cây khô. Ngày sắp tàn cùng với cuộc tình đã rũ áo ra đi. Tình
yêu rực sáng như trân châu trong bóng mờ của trái tim ẩn kín đã tắt cùng với
ánh sáng thảm thương của một ngày Thu buồn nhưng cũng đủ làm vọng lên trong ta
những giây phút hoan lạc của một thời nơi quê nhà yêu dấu. Bên bếp đỏ tro than,
em hãy hơ nóng hai bàn tay rét mướt. Ngày gần nhau đã vĩnh viễn xa rồi. Liệu có
kiếp nào mai sau cho chúng ta những ngày đầm ấm?”
Hỏi
anh giờ này anh mong gì, anh nói, chả biết mình mong gì nữa, “ngày hai bữa nấu
cơm cho vợ ăn là đủ hết ngày rồi”, còn mong gì nữa.
Chị
Hồng, vợ anh đau bệnh. Mà chính bản thân anh cũng nào khá hơn, anh cũng đã “làm
bạn” với tật bệnh từ nhiều năm nay.
Tôi
gợi lại anh về “Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn”, anh nói, chắc chẳng còn bao người
nhớ đến; thế hệ trẻ bây giờ, khó cho họ để cảm được cái cảm của một thời vang
bóng đó. Tôi nói với anh, dù thế nào chăng nữa thì vẫn phải “gìn vàng giữ ngọc”,
vì đó là dấu ấn trong lòng nhiều người trong một giai đoạn tan nát nhất của đất
nước.
Hai
anh em ngồi với nhau, có những lúc thinh lặng không một lời. Tôi cảm được nỗi
cô quạnh đang bủa vây anh. Tôi nói, anh cho em nghe thêm đi, những lời thì thầm
anh vẫn cất lên vào những tối Thứ Năm xưa cũ.
“Tình
chúng ta bắt đầu vào một Thu rất xa xôi, khi những chùm Hoa Thạch Thảo ngát
hương trên những lối đi quanh. Mùa Thu bắt đầu trên giòng sông bát ngát. Mùa
Thu nhuộm vàng những cách rừng. Mùa Thu với áo mơ phai, chiều võ vàng, với xác
hoa trên mình bướm. Em đã đến với anh như đám mây Tháng Bảy nặng mưa rào. Em
hãy đừng quên, dù bây giờ mùa Thu đã chết. Những mùa Thu khác có thể trở về
nhưng mùa Thu của chúng ta đã chết. Anh không bào giờ quên những ngày sung sướng,
hạnh phúc đó. Đừng quên nhau, dù đôi chúng ta chẳng còn tao phùng được nữa.”
“Hãy
cầu nguyện cho tình ta dù một ngày tình đã vỡ tan. Cầu nguyện cho sự yên vui hằng
cửu của mỗi người. Cầu nguyện cho sự tình cờ sầu hận đã đưa chúng ta đến với
nhau. Khi em bước ra khỏi đời, anh chỉ còn hai bàn tay không với những chuỗi
ngày cô quạnh. Đời có người khôn ngoan, có kẻ dại khờ. Có những đôi mắt cười,
có những đôi mắt khóc. Riêng trong mắt anh, có điều gì như đang tan trong lòng.
Em làm sao hiểu được từ ngày em bỏ đi, anh đã rã mục dưới gánh nặng của trái
tim. Có những người tiến xa trên đường đi, có những kẻ lẽo đẽo theo sau. Có người
tự do, có người tù túng. Riêng anh đứng lại rã rời dưới gánh nặng u buồn của
trái tim mình.”
“Em
có nhìn thấy mây giăng kín buổi chiều, nhìn thấy giòng sông trôi. Ngày đã muộn
và con thuyền đã theo sóng trôi xa. Em có nhìn thấy mây giăng kín bầu trời, nhớ
lại những ngày chúng ta còn gần nhau. Những trận gió từ phương Nam thổi về lòng
anh đầy nỗi nhớ nhung. Anh không thể nào nhớ chúng ta đã xa nhau giữa mùa Xuân
hay mùa Hè. Bởi vì mắt anh đã tràn ngập sương lam mỗi lần nhớ tới em, mỗi lần
anh dõi theo chân trời nơi anh tưởng rằng có em. Ôi! ngôi mộ của bình minh nơi
em cư ngụ. Anh muốn tan thành giòng nước cuốn trôi đến nơi mênh mông cô quạnh ấy.
Anh muốn được cùng em tan trong ánh sáng rạng rỡ của ngày bắt đầu, và được cùng
em, hòa trong ánh chiêu dương khi chiều trở lại.”
Khói
thuốc tỏa ra từ cái tẩu, anh chìm trong hoài niệm và như đang bềnh bồng trên
đôi cánh chim bay về cố hương. Anh bảo, để anh đọc cho chú nghe bài thơ anh viết
ở Sài Gòn năm 1984. Bài “Tro Tàn”:
Ta
có thở khói thương nhau
Tình
cũng như nhang tàn
Ta
còn nương náu trong đời không bao lâu
Lòng
có đau thì cũng như nắng qua chiều
Thôi
cũng nhẹ
Ta
yêu nhau trong nghèo khó
Khi
quê hương tàn phá
Được
mấy ngày vui trong đời
Tóc
biếc ngoảnh đi đã đỏ màu phai
Ta
xa nhau vào lúc xa đời
Bóng
bỏ theo người
Đổ một
lần cho hết cuộc rủi may
Cứ
coi là mất coi là hết
Lật
ngửa bàn tay mà cắt dây
Dẫu
cho còn có khi nào nữa
Gặp
lại được nhau cũng muộn rồi
Đừng
hỏi tình xa bao lâu tình sẽ lạ
Và hỏi
người chia xa nhau lòng có sợ
Gương
lạnh bóng mờ
Còn
một phần ba cây nhang đợi cháy vội
Đội
một hòn than chôn chân sầu đứng đợi
Tro
tàn rụng rơi.
***
Bóng
bỏ theo người
Đổ một
lần cho hết cuộc rủi may
Ừ,
anh nói, cũng đã sắp tới lúc “bóng bỏ theo người”.
Nhìn
những thùng sách chất chồng trong căn phòng hẹp của anh, tôi hỏi, “Nguyễn Đình
Toàn tiểu thuyết 1 và 2” có được độc giả chú tâm không, anh cười nhưng không dấu
được chua chát: “cứ xem đây là lần in cuối cùng dành tặng bằng hữu”.
Ngồi
chơi với anh rồi cũng phải về. Anh đóng cánh cửa sau lưng tôi và nói vói theo:
“Đã thấy ta gần với cái xa.”
Câu
thơ này, anh đã đọc cho tôi nghe hôm đám tang Nhạc sĩ Nhật Ngân buổi sáng Mùng
Sáu Tết năm nào.
Theo
đoàn người sau quan tài, đi ngang nơi an nghỉ của Nhà báo Đỗ Ngọc Yến, anh Toàn
ngồi xuống bãi cỏ trước mộ phần anh Yến, đọc cho nghe trọn bài thơ “Đã Nghe”:
Đã
nghe đời xa ta
Người
xa ta
Tình
xa ta
Như
cây khô trút dần hết lá
Đường
đang đi bỗng như
Chập
chờn có sóng đưa
Xô dồn
Trong
một lối về
Đã
thấy quanh ta đời quạnh quẽ
Những
tiếng xôn xao im dần đi
Đời
một phía ta trôi về một phía
Có
phải ta mù dở hay sương che
Những
bóng hình xưa
Nhập
vào trong ước mơ
Giờ
cũng bay ra làm gió
Ta
có quên đâu
Nhưng
nhìn xem cũng lạ
Hoa
ngỡ như không còn là hoa nữa
Những
mặt người ta giấu trong ta
Dấu
mốc đời qua
cười
băng giá
Ta
cũng không mong quay lại nữa
Trăng
thoắt rơi ngang trên đường đi
Ta bỗng
nghe ra bằng thịt da
Đã
thấy ta gần với cái xa
Ô
hay đất đá nào rơi lở
Hay
tự lòng ta lấp lối về.
Rời căn phòng trọ của tác giả “Áo Mơ Phai”, ngoái lại nhìn thấy dáng anh xiêu đổ.
Đêm California se lạnh, trong đầu bỗng vang lên câu cuối của bài thơ: “Hay tự lòng ta lấp lối về”./.
ĐINH QUANG ANH THÁI
Cuối tháng 12.2017