Rừng Scibilia (VA), photo by PCH, 2014
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao
– Nguyễn Du
1.
Trong tuyển thơ Tản văn thi
[Văn Học Press xuất bản, 2018], nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã dùng một trích
ngôn của Hans Sachs, một thi hào sinh sống vào thời Trung đại, “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã
những giấc mơ.” Từ chìa khóa ở đây là “cảm hứng.” Nhờ đó, chúng ta biết chị
không phải là nhà thơ Siêu thực, chị không sử dụng thủ pháp “lối viết tự động”
để diễn đạt những thi ảnh và cảm xúc của giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hoặc vô
thức. Ngược lại, những giấc mơ của chị bắt nguồn từ một ý thức tự thân, từ
những xung động ngoại giới, từ cuộc sống hiện thực, rồi bốn mùa xuân hạ thu
đông chúng được giú bên trong một tâm hồn thi ca mẫn cảm, một cảm xúc tha
thiết, để qua chữ nghĩa cách điệu nhưng đẹp nền nã, óng mượt nuột nà, chị đã
gửi đến giới yêu thơ hôm nay một tác phẩm thơ đặc sắc, rất quý và rất hiếm.
Chẳng cần tìm kiếm đâu xa, ngay từ bài thơ đầu của tác phẩm, Khoảnh khắc giấc mơ, Nguyễn Thị Khánh
Minh đã thố lộ cùng chúng ta nguồn cảm hứng cho những giấc mơ của chị. Nó là “tiếng
chim ríu rít,” là “bóng đêm,” là “ánh sáng,” là “bờ vai nương tựa,” là “những vì sao,” là “gió,” là “bóng mây,” là “tiếng cười bé thơ,” là
Nơi kia nhà tôi. Mỗi ban mai thấy mặt
trời lên. Nơi kia tình yêu tôi. Không ngừng khoảnh khắc phút
giây hiện hữu. Nơi vòng tay tôi vẫn ấm lòng nhân
gian bầu bạn cho dẫu từng nhịp quay thế giới đang
chìm dần trong tối. Và may thay nước mắt còn rơi từng
hạt sông chở niềm đau về biển.
(Khoảnh khắc giấc mơ)
Chẳng thể nào nghĩ khác hơn, từ một
thực tại linh động, từ cái mà chị gọi là “bức
tranh sắc mầu cuộc sống,” chị đã nâng niu nuôi nấng cảm xúc rồi phó thác nó vào chiêm bao thơ
mộng, và nhờ hơi thở bùa phép thi ca cho nó một đời sống mới, một siêu-thực-tại.
Sự vật trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh như có một đời sống mới, bởi nó được
chắt chiu đãi lọc bằng một cõi lòng “tinh
khôi nhân ái,” bằng “những mảnh vỡ
trái tim” để ước nguyện sau cùng của chị chỉ giản dị là những “hạt pha lê được
nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến.” Chỉ trong một “xứ sở chiêm bao,” hay chính xác hơn trong một “khoảnh khắc giấc mơ” chị mới thực sống. Trằn trằn những giấc mơ nhức nhối khôn nguôi:
Có thể một xô
lệch của thời gian, được không? Anh bước qua cây cầu và đi vào không gian giấc
mơ? Giấc mơ em ở đó, không thời gian. Không ở đâu trong thế giới hiện hữu này.
Cánh tay thực tại buông lơi, Giấc Mơ em gọi tên, người bạn rong chơi cùng em
suốt mùa quá khứ, đập cùng em nhịp tim của phút giây, và là một mơ hồ vẫy gọi ở
cuối chân trời. Giấc Mơ, nơi có thể giữ lại thời gian, cho em sống, ở lại, với
tấm lòng mãi mãi Hôm Nay.
(Nơi bắt đầu mùa xuân)
Và chị miêu tả những giấc mơ ấy:
Tôi là kẻ đi nhặt những giấc mơ
Giấc mơ người ta quên khi xuống tầu
thời gian
Giấc mơ người ta đánh rơi trong đêm
Giấc mơ bị đánh cắp trong ngày
Giấc mơ bong bóng bay
Giấc mơ còng gió
Giấc mơ bọt biển
Giấc mơ hạt cát
Giấc mơ chín
Giấc mơ non
Vô cùng. Những Giấc Mơ Xanh.
(Ai cần giấc mơ?)
Con người là sinh vật duy nhất biết cô độc và mộng mơ. Vì cô độc nên mới
mộng mơ hay mộng mơ dẫn đến cô độc? Cả hai có nhất thiết đi đôi với nhau không?
Câu trả lời xem ra chẳng cần thiết, bởi đằng nào chúng ta cũng chấp nhận đội
trên đầu cái vòng kim cô ấy, nhưng nó là cái vòng kim cô dịu dàng, bởi không cô
độc và không mộng mơ thì rất khó cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật xem được.
Beethoven sống suốt đời trong cô độc, và chàng mơ mộng đến độ tưởng tượng ra
những Người Tình Bất Tử để chàng viết không biết bao nhiêu lá thư tình diễm
tuyệt mà còn truyền tụng đến ngày nay. Nhưng chính nhờ thế chàng đã để lại cho
hậu thế những khúc nhạc bất hủ, và chúng ta mãi mãi chịu ơn sự cô độc cùng tính
mơ mộng của chàng.
Mơ hay mộng mơ không hẳn chỉ là một hành vi vớ vẩn vô nghĩa (hay vô bổ,
nếu bạn muốn gọi như thế). Kì thực, nó chính là thao tác thẩm mĩ, một trò chơi
của trí tưởng tượng, một trò chơi có giá trị tự thân, một nhu cầu sâu thẳm nhất
của con người mà chúng ta càng lúc càng bỏ quên trong cuộc sống bình nhật vốn
giành hết tâm trí và năng lực chúng ta. Không, đừng hiểu sai, tôi không nói đến
chuyện mơ một ngôi nhà nguy nga, một chiếc ô tô lộng lẫy. Tôi muốn nói đến
những giấc mơ phương hoa của Nguyễn Thị Khánh Minh. Hãy lắng nghe chị thủ thỉ:
Đêm im,
bầy lá non không hát nữa hồn nhiên, nghe trong cây tiếng thở dài khe khẽ, nghe
không gian từng sợi nhỏ rung rung, và tôi nữa, một cành khuya đợi gió về thắp
sáng.
Muốn gửi
về phía đêm hương hoa chớm mùa say đắm, ngõ chiêm bao rộ sắc thời gian. Muốn
gửi về phía ngày hương khuya sâu mộng mị cho mai về nắng sống lại tươi mươi.
(Bầy lá non thở dài trong đêm )
Hay những giấc mơ sắc mầu:
…
Xin tím là ánh nhìn thương yêu, mỗi mỗi nỗi buồn là nụ hoa kỳ diệu... Xin
tím hát tình ca đắm đuối, để niềm vui thao thức khôn nguôi, hạt thời gian xanh
hoài phiến mắt, chút buồn kia sương sớm mong manh.
(Sắc tím)
Thời gian lúc ấy. Là mầu xanh rộng của trời. Mầu nâu ấm áp của con đường.
Mầu tím của cánh hoa nở trong giấc ngủ. Mầu đỏ ối của chùm ổi trong bữa của bầy
chim. Mầu nước mía quện rêu bờ ao. Chúng ta
bên nhau ánh nhìn vỗ cánh...
(Ngày lúc ấy)
Những thi ảnh thật đẹp trong mơ tuần tự trôi về như những thước phim đầy
mầu sắc và âm thanh. Nhà thơ đã vận dụng tất cả giác quan cùng trực quan để
khám phá một thế giới mới, trong đó cảnh sắc và cá thể hòa nhập làm một như
trong truyện thần tiên. Chỉ trong giấc mơ, tâm và cảnh mới có thể nhập lại như hiện
hữu trong cùng một cầu vực tinh ròng, thuần khiết.
Bay theo
gió mùa hè hương đồng lúa chín. Và tôi. Đã như
thể một trong những cánh chuồn kim lá biếc. Tha sợi nắng li ti về trên cỏ tuổi thơ. Lấp lánh bảy sắc cầu vồng. Bắc
nhịp.
Trải theo con đường đất nâu nhạc tim rơi trong từng khoảnh khắc.
Tôi. Như thể thời gian đang giữ lại một mùa hạnh phúc. Ngày êm êm con nước chảy thức dậy cánh bèo tím.
Chiếc cầu bắc ngang những buổi trưa hè. Tôi. Đã từng là giấc mộng anh kể.
Không gian lúc ấy đựng đầy hương ổi.
Đàn chim hay đánh rơi xuống chỗ tôi ngồi những mảnh vỏ và hạt. Tôi nói. Ước mơ
em ngọt và thơm như những trái ổi sẻ. Anh bảo. Anh muốn thành đàn chim về ăn
quả...
(Ngày lúc ấy)
Giở gần như bất cứ bài thơ nào, bạn cũng thấy câu chữ với những hình ảnh
và cú điệu như thế. Và nếu chú tâm thêm chút nữa, để ý năm tháng sáng tác ghi
dưới mỗi bài thơ, bạn sẽ thấy những bài thơ này trải dài suốt một thời gian 40
năm trường. Bốn mươi năm mà không thấy sự khác biệt lớn lao nào về cảm quan
nghệ thuật lẫn ý tưởng giữa những bài làm từ rất lâu và những bài gần đây,
chứng tỏ nhà thơ đã trưởng thành rất sớm và nó cũng chứng tỏ một tâm hồn nhạy
cảm.
Người nhạy cảm có thể khổ đau nhiều hơn kẻ không nhạy cảm, nhưng nếu thấu
hiểu và đủ sức vượt qua những khổ đau ấy, hắn sẽ khám phá ra không ít cái đẹp
bất ngờ đang chờ đón hắn ở bến bờ xán lạn phía bên kia, nơi hắn có thể rũ bỏ
mọi ưu phiền để tìm cho mình một tâm tư tĩnh lặng, một cuộc sống đáng sống.
Người nhạy cảm cũng là người tin tưởng vào chủ nghĩa yêu thương, một chủ nghĩa
nhân đạo đích thực. Triết gia Ấn Độ Krishnamurti suốt đời rao giảng chủ nghĩa
này. Ông kêu gọi con người chúng ta hãy phá bỏ bức tường thành kiến, truyền
thống, tôn giáo, đạo đức giả, hủ tục… hãy trút bỏ lòng sợ hãi, dục vọng, tính đố
kị, ích kỉ… để thực hiện một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng lấy yêu thương
làm trung tâm, một love-centric
revolution. Đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi có cảm tưởng như nghe thấy lời
của triết gia quyện lẫn bên trong những câu thơ của thi gia:
Yêu
thương nhé, nghe nắng vừa lên, nói cùng hoa đang nở trắng trên cành, nói cùng
lá cứ sống hết mình xanh, cho hừng đông tuôn trào sức sống. Trong ban mai những
ước mơ trổ nụ, yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…
Trong
tiếng nhạc ngày về óng ả, mắt chim non vừa bỡ ngỡ bao la, cất tiếng gọi đầu
tiên thơ dại, lá xôn xao quấn quýt những bàn tay, yêu thương ơi khoảnh khắc xum
vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay.
(Yêu thương ơi)
2.
Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh tràn đầy cảm xúc yêu thương, một tấm lòng yêu
thương rất nữ tính. Chị chẳng những yêu thương mái nhà ấm áp của chị nơi có bờ
vai cho chị ngả vào, có đàn con cho chị sẻ chia tình mẹ con, mà còn quý mến
từng nụ hoa, từng lá cỏ, từng kỉ niệm, từng lời hát, từng hình ảnh, từng ánh
mắt, từng nụ cười… Chị cất giữ tất cả trong chiếc hộp có thắt nơ thân ái của
chị rồi thi thoảng đem ra nhẩn nha nâng niu ngắm nghía cho cõi lòng chùng xuống
với những nỗi niềm trìu mến, thiết tha. Tôi hình dung như thế, bạn ạ. Chẳng
biết bạn có cùng ý nghĩ như tôi?
Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh bàng bạc tố chất nữ, ngay cả trong giây phút
bâng khuâng, thậm chí hoang mang, lúc đứng trước một hiện thực phân chia có
phần đen tối của thế giới ban ngày, chị cũng để hiển lộ tâm cảnh của một người
nữ:
Sáng nay
buồn buồn trông lên cái nhìn tôi không thể xa hơn nỗi sợ, sợ giấc mơ của tôi
của anh của cánh diều trẻ thơ tan tác trong những phân chia ranh giới. Ranh
giới đất trời ranh giới Đông Tây ranh giới thiện ác ranh giới tin ngờ ranh giới
sống chết.
Có lẽ
rồi chỉ còn mây đi qua được những biển cấm. Có lẽ rồi chính dòng nước kia cũng
sẽ là rào chắn đường bơi của cá. Có lẽ rồi những mảng xanh chỉ còn vớt vát được
nơi ánh nhìn của người mơ mộng.
(Ngó lên trời ngó
ra biển)
Đây là điểm rất đáng được lưu ý trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, bởi
chúng ta có thể đặt tố chất nữ trong thơ chị vào ngôn cảnh của Bút pháp nữ để quy chiếu tầng ý nghĩa
của tác phẩm lên một chiều kích mới mẻ, phức tạp hơn.
Lí thuyết Écriture féminine (Bút pháp nữ) đưa lên tiền cảnh sự quan
hệ của ngôn ngữ để thấu triệt bản ngã ở khía cạnh tâm lí. Dựa vào những khám
phá của ngành Phân tâm học về một khảo hướng làm thế nào con người hiểu thêm
vai trò xã hội của mình, nó tìm cách lí giải phương án bằng cách nào người phụ
nữ có thể đặt mình vào vị trí “khác” trong một trật tự biểu tượng phái nam để
tái xác định sự hiểu biết về một thế giới hữu quan xuyên qua những thao tác
giao thoa với cảnh giới ngoại tại.
Tôi bắt gặp thật nhiều những câu thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh điển hình
cho suy nghĩ Écriture feminine, như những
câu sau đây:
Hãy chậm
thôi, Hôm Nay đang cất tiếng… dẫu rực rỡ ban mai dẫu sụt sùi bóng tối. Xin rất
bình yên lúc tan đi lúc ở lại vui chung. Tơ lòng ta buộc với bao la. An nhiên
sương niềm ấy vô cùng…
(Những sợi tơ)
Mơ màng lời cầu kinh trong tiếng nổ.
Mơ màng lời kêu gọi chống-chiến-tranh-tới-giọt-máu-cuối-cùng…
Bảo-vệ-quê-hương-đến-giọt-máu-cuối-cùng… Ôi máu
không ngừng chảy…
Ai cũng
có quyền được sống. Ai cũng có quyền có một mảnh đất để sống. Và. Giết nhau
khắp nơi…
(Ai đang nói gì
thế)
Đêm. Từng đêm. Ai đã để ở đó những bó hoa tàn cột
chân những trái bóng xanh đỏ những con thú nhồi bông hai mắt nút đen buồn bã.
Cây chong chóng không gió nói chuyện về những em bé chỉ còn để lại cái tên.
Viết vội. Dòng nước
mắt cong queo khô đáy nến. Ngọn nến
buồn nhất của đêm con mắt linh hồn ngơ ngác cháy nhấp nhô miếu đêm trôi dài
tiễn biệt.
(Sống sót)
“Vị trí khác” là cụm từ chìa
khóa để hiểu định nghĩa Bút pháp nữ. Từ
đó, chúng ta có thể nói gì về “cái khác” trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh? Hiển
nhiên, chị không làm “khác” bằng cách đắm chìm trong dục tính như Hồng Khắc Kim
Mai dạo trước hay Vi Thùy Linh sau này. (Tuyệt đối không tìm thấy dấu vết dục
tính nào trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.) Chị cũng không làm “khác” bằng cách tự
vẽ vòng tròn rồi bước vào đứng bên trong, ngạo nghễ (hay ngổ ngáo) thách đố thế
giới bên ngoài như Nguyễn Thị Hoàng Bắc. Chị nhìn thế giới với con mắt bao
dung, yêu những cái đẹp nhỏ nhoi, bình thường của nó, nhưng chị đau xót vì sự
băng rã của nó, phẫn nộ vì cái xấu xa của nó, và chị van nài, cầu khẩn chúng ta
hãy cùng chị thương yêu nó hơn. Chỉ có yêu thương mới đem lại chân lí. Hẳn chị
phải nghĩ như thế. Nhưng chị yếu đuối, chị là phái yếu, chị đơn độc, thiếu kẻ
đồng hành, và bởi thế chị chọn giải pháp đi vào giấc mơ để nói chuyện với chúng
ta. Trong giấc mơ chị có thể nói những điều mà ngay kẻ “đường đường một đấng
anh hào” bình thường ngoài đời không dám nói, và trong một trật tự biểu tượng
phái nam, chị đã “làm khác” như thế. “Làm khác” để có thể nhìn thấy một viễn
cảnh to rộng hơn, một chân trời ló dạng rõ hơn ở bên kia bến bờ hi vọng.
Bà nhà văn Flannery O'Connor bảo, “… Viết
văn không phải là đào thoát khỏi thực tại, mà là nhảy thật sâu vào thực tại
khiến hệ đời sống như bị chấn động bởi cơn sốc.” Nguyễn Thị Khánh Minh
chẳng muốn gây “sốc” chút nào. Nhưng bà O'Connor cũng nói thêm, “. . . Nhà văn là kẻ vẫn còn hi vọng trên cõi đời, kẻ không còn hi vọng không
viết văn.” Về điểm này thì Nguyễn Thị Khánh Minh hoàn toàn tin theo, chị là
kẻ vẫn còn hi vọng trên cõi đời.
Tôi sẽ
theo con sóng nhỏ về biển xanh. Biển thanh bình hiền hậu. Xóa đi
những giờ thiên tai. Người ơi. Nếu có tìm tôi. Phút thức khuya trên hàng dương
liễu và con trăng mới mọc. Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối cùng là phương đông ấm
một mặt trời…
(Khoảnh khắc giấc mơ)
Khổ thơ này khép lại tuyển thơ, và cũng như bài thơ đầu cùng tên, nó gói
ghém những giấc mơ của chị, và mở ra một hi vọng “nơi cuối
cùng là phương đông ấm một mặt trời…” Một hi vọng nhỏ nhoi mà bao năm rồi vẫn hoài hi vọng.
3.
Tản văn thi là một tuyển thơ lạ. Ngay cái nhan đề đã lạ rồi, nó cho người đọc biết
đây là một kết hợp thú vị giữa tản văn và thi ca. Đừng quên Nguyễn Thị Khánh
Minh là một cây bút viết tản văn xuất sắc. Tập tản văn Bóng bay gió ơi của chị ra mắt cách đây ít năm đã gây tiếng vang
không ít. Tuy thế, dù là văn, trọng lực chữ nghĩa của chị hình như nghiêng về
thơ nhiều hơn. Tôi nói thế không phải bởi chữ nghĩa tản văn của chị chau chuốt,
óng ả như lời thơ, mà bởi ở bất kì loại thể
văn học nào, chị vẫn là con chim họa mi đậu trên rượng hoa trong bóng
đêm hót về nỗi niềm cô độc của mình bằng tiếng hót ngọt ngào. Thi hào Anh Percy
Bysshe Shelley hồi đầu thế kỉ XIX đã định nghĩa thơ như thế, và tôi thấy thật
đúng nếu đem định nghĩa ấy gán cho Nguyễn Thị Khánh Minh. Văn hay thơ.
Thơ chị trong suốt, ong óng như một dải lụa, và đi thẳng vào lòng người.
Chị ít sử dụng hoán dụ hay ẩn dụ trong câu chữ. Ở những nhà thơ tiền bối như
Nguyễn Du, thơ là một đại lâm ẩn dụ. Chỉ
một câu thơ “Đài gương soi đến dấu
bèo cho chăng” chàng Kim Trọng đem ra tán tỉnh Thúy Kiều đã thấy một hoán
dụ (đài gương) và một ẩn dụ (dấu bèo) rồi. Dĩ nhiên, cái mà Milan Kundera gọi
là “ý thức của sự liên tục” không cho phép chúng ta làm thơ như Nguyễn Du, cũng
như thời nay không ai viết nhạc như Beethoven. (Chỉ làm trò cười cho thiên hạ,
Kundera bảo thế.) Thay vì hoán dụ hay ẩn dụ, Nguyễn Thị Khánh Minh sử dụng sự
vật hữu quan, khoác cho chúng một thi ảnh hay một thi tứ nào đó, rồi bằng thứ
ngôn từ diễm ảo, vi tế nhưng không làm dáng, chị thổi bùa phép vào chúng để
biểu đạt điều mình muốn nói.
Hãy chạy nhanh ra biển anh ơi. Cùng
đàn chim đang tấu khúc ban mai rực rỡ. Trên bảng mầu mong manh chúng ta sẽ kịp
chấm phá ánh nhìn tươi vui trước khi nét ban sơ này bị phá hỏng. Cùng với đàn
sóng. Tan vào trong suốt đại dương trước khi chúng phai mầu khô cạn. Vươn dài
đôi tay khát khao theo dòng chảy êm ả của con sông còn một bến hẹn biển xanh…
(Điều mơ mộng nhỏ)
Những thi ảnh “biển,” “đàn chim,” “tấu khúc ban mai,” “bảng mầu mong
manh,” v.v… trong khổ thơ trên không hề mang một giá trị nội tại nào, chúng chỉ
là những biểu tượng hữu quan, để từ đó chị thăm dò và khai mở tâm cảnh (mà
trong trường hợp bài thơ này là nỗi lo sợ trước một thế giới loài người đang
tàn tạ). Những biểu tượng tương tự xuất hiện thật nhiều trong thơ Nguyễn Thị
Khánh Minh, hầu như bài thơ nào, khổ thơ nào cũng có. Biểu tượng không xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tùy tiện. Chúng được nhà
thơ khám phá chứ không phải sáng tạo từ vô thể. Thế rồi, cấu trúc biểu
tượng được tạo dựng bằng cách phóng chiếu cảm xúc nội tại ra thế giới ngoại
tại. Các biểu tượng nhờ thế như có linh hồn và đấy chính là bùa phép của nhà
thơ, bởi nhà thơ – chỉ nhà thơ thôi – là kẻ có quyền năng “đi vào linh hồn của
sự vật.”
Những nhà thơ theo truyền thống Tân-Plato như Baudelaire hay Poe xem thi
ca là cái gì vượt qua thế giới hữu hình và có khả năng thấu hiểu được chính
chân lí thánh hóa. Kết quả có thể khiến kẻ chưa khai tâm rơi vào cõi sa mù, hỗn
mang, nhưng qua biểu tượng, nhà thơ khai thác được cái mà ngày nay chúng ta gọi
là nguyên mẫu, và nhấn mạnh tính ẩn dụ của ngôn ngữ. Về điểm này, thi ca Việt
có lẽ đã nắm bắt được nguyên lí ấy từ buổi
rạng đông, cách đây cả nghìn năm. Đọc lại hai câu thơ ngắn sau của Thiền sư Huệ
Sinh thời Lý, “Tịch tịch Lăng già nguyệt
– Không không độ hải chu”, chúng ta thấy sự vật hữu quan được nhà thơ sử
dụng một cách tài tình để miêu tả cái trừu tượng. Những biểu tượng như “vầng
trăng,” “Lăng già,” “con thuyền,” những sự vật hữu hình, đã được khoác chiếc áo
ẩn dụ để bật mở những khái niệm trừu tượng ở tầng cao hơn như chân như, bản
thể, thực tại, đại hồn, đại ngã… Thi ca Lý-Trần, đặc trưng của Thiền tông Việt
Nam, đa phần đều dĩ tâm truyền tâm như thế cả, tức là nó có khả năng chắp đôi
cánh thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế giới hữu hình, không bị giới hạn bởi
không-thời-gian, mà, bằng biểu tượng và trực quan, phóng chiếu thực tại lên
siêu-thực-tại.
Biện biệt dài dòng như vậy, chẳng qua chỉ để nhích đến một suy nghĩ chủ
quan: Tuy câu chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh không chứa đựng nhiều ẩn dụ, nhưng
mỗi khổ thơ trong thơ chị, thậm chí mỗi bài thơ, qua ngôn ngữ, là một ẩn dụ
lớn.
Nguyễn Thị Khánh Minh không nệ chữ mặc dù thi thoảng chúng ta bất chợt bắt
gặp những biện pháp tu từ như bả mây dập
dồn, hạt lệ dai, cái
nhìn đầu tiên của loài cuội, nắng
ngọt vai. Và nhiều nữa, trong suốt tập. Theo tôi thì chủ ý chính của nhà
thơ chỉ giản dị là tiếp lực khả năng biểu cảm của ngôn từ hầu có thể biểu hiện
những cảm xúc, cảm quan, cảm thức vốn nằm ngoài đường biên của ý thức hằng
ngày. Nguyễn Thị Khánh Minh cũng không sử dụng biện pháp juxtaposition một cách tới hạn, có nghĩa là chị không đặt liền kề
những thi ảnh tréo ngoe, tương phản, chẳng ăn nhập gì với nhau để bật mở một
hiệu ứng bất ngờ nào đó giữa những con chữ, như nhiều nhà thơ khác ưa chuộng
(Thường Quán chẳng hạn). Sự thật, Nguyễn Thị Khánh Minh rất cẩn trọng với câu
chữ. Các từ nằm bên nhau tưởng như tình cờ nhưng đọc kĩ mới thấy dụng tâm của
nhà thơ. Nghệ thuật phối từ đạt tới mức độ chín muồi, điêu luyện. Kho từ vựng của
chị cũng là rất phong phú. Nhờ đó người đọc có cảm tưởng chị làm thơ như lấy đồ
trong túi (nhưng thật ra không phải thế đâu, lao tâm khổ tứ lắm!) Thơ của chị
là khúc nhạc với những mô-típ liên ý nghĩa, được viết với nhịp tiết Allegro con
moto. Luôn luôn chuyển động. Câu chữ dồn dập. Ý tưởng cuồn cuộn. (Tôi đang nghĩ
đến một khúc nhạc của Mozart.) Và chính bởi thế, chúng ta tuyệt đối không nên
đọc thơ chị với tốc độ đọc một bản tin “xe cán chó,” một điều chúng ta thường
xuyên phạm phải trong cuộc sống hôm nay.
4.
Nếu bị ai hỏi trong tuyển thơ Tản
văn thi của Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi thích bài thơ nào nhất thì có lẽ tôi
sẽ lúng túng không biết trả lời sao. Chẳng lẽ trả lời ba phải là bài nào cũng
thích? Vâng, sự thật là gần như bài nào cũng thích, nhưng thú thật cùng bạn, thích
nhất với tôi có lẽ là bài Buổi sáng cùng
chim nhại.
Sự hiện hữu của một con chim biết nói và nhất là khí hậu ma mị của bài
thơ làm tôi liên tưởng đến bài Con quạ
(The Raven) của thi hào Edgar Allan
Poe.
Con quạ là một khúc thơ tự sự của Poe, ngôn từ cực kì cách điệu, xuất hiện lần
đầu năm 1845, thuật chuyện người đàn ông thương nhớ vợ (hay người yêu) tên
Lenore mới qua đời. Một đêm nọ, trong lúc chàng đang vật vã than thở thì một
con quạ đen bay qua cửa sổ vào phòng và đậu trên đầu pho tượng nữ thần Pallas.
Con quạ không chịu bay đi và trong cơn đồng thiếp chàng nhấc ghế lại nói chuyện
với con quạ. Chàng than thở về nỗi buồn của chàng và hỏi nó đủ thứ chuyện nhưng
nó chỉ trả lời một câu cộc lốc “Nevermore”
như một điệp âm ma quái, ghê rợn tại cuối mỗi khổ thơ. Cuộc nói chuyện kéo dài
và chàng đi từ trạng thái buồn rầu, phiền não đến chỗ thác loạn thần kinh rồi
ngã sóng sượt dưới sàn nhà.
Bài thơ Con quạ của Poe bắt đầu bằng tiếng gõ cộp cộp lên cánh cửa phòng
người đàn ông đang nhớ thương người yêu, bài Buổi sáng cùng chim nhại của Nguyễn Thị Khánh Minh cũng bắt đầu bằng tiếng gõ cộp cộp của con
chim nhại lên mặt kính của sổ:
Con chim cổ trắng. Đậu trên cành cây
gai. Bên ngoài cửa sổ. Gió cào trên mặt gương. Tôi gõ vào cửa kính. Nó đáp lời,
cộp cộp, xòe đuôi lên: Sao gọi tôi là chim, sao gọi tôi là chim. Hỡi người đang
ngồi trong hộp kính? Tiếng cộp cộp vỡ tung những
mảnh sáng.
Sự tương tự chấm dứt nơi đó. Với Con
quạ, người ta không hề thấy một tia dấu vết hi vọng nào, sự tuyệt vọng hình
như càng lúc càng tăng, trái ngược với bài thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh, nỗi
niềm cô độc như được vỗ về bằng đường bay muôn dạng của con chim nhại để nhận
thấy rằng tia sáng hi vọng vẫn còn. Một ẩn dụ hiếm hoi tìm thấy trong bài thơ,
đó là “hộp kính.” Hiển nhiên, nó mang
chức năng biểu hiện sự mất tự do, nhưng đừng hiểu đấy là một nhà tù giam hãm
thân xác. Phải đọc tiếp câu chữ bài thơ, chúng ta mới nhận ra sự mất tự do là
do chính chúng ta đã không dám thốt lời yêu thương, không dám để yêu thương làm
kim chỉ nam đưa đường chỉ lối mà cứ để ngôn từ ma muội dẫn dắt vào mê lộ:
Trong cái mỏ của loài tự do những
cọng rơm ngôn từ cựa quậy. Nó làm tôi ngứa miệng. Tôi nhớ chiếc hộp kính nơi
tôi hít thở mỗi ngày. Tôi nhớ câu tôi thường nghe. Tôi nhớ câu tôi thường nói.
Xanh mở mắt trời. Gió bung hết những
cánh cửa keo kiệt của thời gian. Chạm vào đường biên mơ hồ của vô tận. Tiếng
đập mê man thiên đường tôi đôi cánh. Chế giễu một loài hai chân cực kỳ ngây thơ, cái gì cũng đặt tên cái gì cũng giải
nghĩa cái gì cũng dùng lời.
Chỉ khi nào học được bài học của con chim nhại, nhìn ra đường bay tự do
của nó, thấu hiểu lẽ thường hằng của cuộc nhân sinh, tính vô thường của sự vật,
yêu cái đẹp nhỏ nhoi của đất trời, cảm tạ ân nghĩa được sống bình thường, ở một
nơi có “chiếc ghế tình yêu,” “nơi tôi sẽ được nói, mỗi ngày, yêu anh,”
“nơi tôi sẽ được nghe, mỗi ngày, yêu em,”
“với nắng ngọt vai của mặt trời sắp lặn,”
thì lúc đó ta mới thật sự thoát ra khỏi cái “hộp kính” ghê rợn kia mà hòa nhập vào cuộc sống phương hoa muôn sắc
mầu này. Bởi chân lí không ở đâu xa mà nằm trong chính mỗi chúng ta.
Hình như suốt tuyển thơ, nhà thơ chỉ muốn nói có thế.
– Trịnh Y Thư