Nguyễn
Đồng. Đêm Trắng, sơn dầu.
Mỗi cuộc đời là một hành trình. Đời nghệ thuật cũng
vậy, có điểm khởi hành và điểm để đến. Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Thị Hợp
- Nguyễn Đồng vừa đúng 50 năm. Đã đến lúc nên cắm một dấu mốc để nhìn lại.
Nguyễn
Đồng. Ký họa Nguyễn Quỳnh.
Trước tiên, hãy thử nhìn vào thế giới Nguyễn Đồng.
Thời trẻ, Nguyễn Đồng tuy không đi qua trường Mỹ Thuật một cách bài bản, nhưng
anh cũng từng học vẽ ở một họa thất riêng và anh đã tự nghiên cứu rất công phu
dựa trên những công trình học thuật nền tảng, ví dụ là của những Elie Faure,
René Huyghe. Định mệnh cũng mang lại cho Nguyễn Đồng một điều kỳ lạ; anh khởi
đầu con đường mỹ thuật với Nguyễn Trung, cùng đến học vẽ với ông thầy dạy hội
họa ở một thành phố miền Nam cách xa nơi đô hội, cùng chia sẻ cách nhìn về cái
đẹp. Người bạn Nguyễn Trung ấy, về sau đã trở nên một nghệ sĩ lớn ở đất Sài
Gòn, có thể xem là thủ lĩnh của những trào lưu hiện đại nhất, và Nguyễn Đồng
cũng là một khuôn mặt sáng giá của những trào lưu này; tôi muốn nói đến tổ chức
tiền phong của thời ấy là Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam.
Nguyễn Đồng tốt nghiệp về triết học, nhưng ra đời,
dù sinh hoạt trong nghề sư phạm, lại tập trung nhiều nhất về mỹ thuật. Từ triết
học đến mỹ thuật, rất cách xa nhau, nhưng đường biên giữa hai lĩnh vực này có
lúc cũng chỉ là một đường tơ mong manh, nghệ sĩ tạo hình lắm khi cũng là một
nhà tư tưởng. Thời tuổi trẻ của Nguyễn Đồng, thực là dễ hiểu, khi đường nét và
màu sắc của anh rối rắm như những trang sách triết học. Càng về sau, trong
khoảng hơn 20 năm sau này, cách nhìn của anh đã được tinh lọc và đi tới cùng
cực của sự đơn giản.
Ngày trước, cũng như các bạn đồng thời, anh rất mê
những Van Gogh, Picasso, Paul Klee, Gauguin, nhưng về sau anh đã xóa mờ tất cả những
bóng dáng ấy, ngày nay như Nguyễn Quỳnh nhận xét và chính anh cũng phần nào
thừa nhận, chỉ còn rơi rớt đôi chút chiều sâu Paul Klee.
Anh thích vẽ lại qua trí nhớ mơ hồ về những cảnh trí
miền Nam. Những đầm nước mênh mông, những hồ bông sen bông súng giữa chiều hè,
những con chim bay lượn, đập cánh hay đậu lại bên những bông hoa nở rộ ấy. Đồng
lúa vô tận xô dạt dưới cơn gió nhẹ, những cây trái miền Nam, những kinh rạch
chảy dài mà hai bên bờ chen lấn hàng dừa nước dưới ánh mặt trời rực rỡ.
Nguyễn Đồng có cách nhìn, lối bố cục rất khác mọi
người, hay là chẳng còn ai dựng một bố cục như thế. Căn nhà ngay chính giữa bức
tranh, hai bên là một vườn dừa mà tất cả thân cây, tàu lá đều như hướng về căn
nhà trung tâm. Một mái nhà khác, với chiếc cầu ao nhỏ bước xuống hồ nước mênh
mông xao động. Bố cục dồn vào tâm điểm mặt tranh, hay cắt ngang chính giữa mặt
phẳng bức tranh theo chiều dọc.
Vẽ tĩnh vật cũng thế. Rất giản dị, quả măng cụt đặt
trên tàu lá chuối ở trung tâm bức tranh, chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích mặt
tranh, và nền tranh rộng dường như được mày mò tìm kiếm đã rất lâu. Để biểu cảm
một thứ gì đó, muốn nói một cái gì đó, như sự tưởng tượng để dẫn đến một không
gian trừu tượng.
Nguyễn Đồng.
Măng Cụt Trên Lá Chuối, màu nước.
Rồi một bông hoa đặt ngay giữa bức tranh, thấy rất
quen mà cũng rất lạ, một bông hoa nở rộ mà chúng ta khó biết chắc là bông hoa
gì. Bức tranh đưa ra một cái gì đấy, vẽ ra một cái gì đấy, mà lại như không có
gì ở đấy. Đó là con đường bước đi từ hữu thể đến trừu tượng, hay bán trừu
tượng. Con chim, những bông sen, mặt hồ của Nguyễn Đồng là một biểu cảm
semi-abstraction. Xem tranh Nguyễn Đồng, tôi nhớ nhiều đến Georgia O'Keeffe.
Những bông hoa cực kỳ đơn sơ và mái hiên nhà với cánh cửa màu đen chỉ bằng mấy
đường viền và vài mảng màu nhợt nhạt. Mênh mông và thăm thẳm, để dẫn đến thế
giới nội tâm của người nghệ sĩ.
Biểu hiện, biểu cảm, trừu tượng, và bán trừu tượng.
Những cách thế và ngôn ngữ mà người họa sĩ Nam bộ Nguyễn Đồng vận dụng để phác
họa cảnh quan miền Nam qua trí nhớ và tưởng tượng. Nguyễn Đồng làm được điều
này một cách khá lạ, không biết thành công hay không, nhưng đúng là can đảm đi
theo cách mình nhìn thấy, chiêm nghiệm và sống.
Chúng ta hãy thử nhìn tiếp vào thế giới và con đường
nghệ thuật của Nguyễn Thị Hợp. Chị chuyên về tranh lụa, trong sinh hoạt hàng
ngày thì vẽ đồ họa và minh họa.
Nguyễn Thị
Hợp. Mẹ Con, tranh lụa.
Nguyễn Thị
Hợp. Ký họa Nguyễn Quỳnh.
Nguyễn Thị Hợp vẽ minh họa cho sách báo từ giữa thập
niên 60 ở Sài Gòn; mấy chục năm qua, chị vẫn tiếp tục làm công việc này ở nước
ngoài, và ngày nay, phải nói rằng chị đã đạt đến tinh hoa của lĩnh vực này (*).
Nhưng nói về nghệ thuật thực sự, thì phải nói đến
tranh lụa; tranh lụa Nguyễn Thị Hợp là một bó hoa đậm đà hương sắc dân tộc, hết
sức độc đáo, và rất quen thuộc với mọi người.
Chúng ta hãy nhìn sâu vào bối cảnh vấn đề một chút.
Trước đây, thế giới biết nhiều và ngưỡng mộ tranh lụa cổ Trung Quốc, tranh mộc
bản Phù Tang, thì ngày nay góp thêm vào bầu khí phương Đông ấy là bảng màu của
tranh lụa Việt Nam.
Nguyễn Thị
Hợp. Đêm Hè, tranh lụa.
Trước thời Đệ Nhị Thế Chiến, trong một tình cảnh
lịch sử đặc biệt và mối tương quan giữa nước Pháp và Việt Nam, có vài họa sĩ
Việt Nam xuất thân từ Trường Mỹ Thuật
Đông Dương rời bỏ xứ sở và định cư ở Pháp. Họ mau chóng tạo được thanh thế, có
chỗ đứng và được trọng vọng trong đời sống văn hóa Pháp. Đó là Lê Phổ, Mai
Trung Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu. Cũng phải kể đến hai nhà danh họa Nguyễn
Phan Chánh và Lê Văn Đệ chỉ ở Việt Nam, hoặc trở về Việt Nam chứ không định cư
luôn ở Âu Châu. Họ được quý trọng có lẽ vì họ đã mang đến một nguồn ánh sáng
mới, có thể là thâm trầm và huyền ảo đối với Tây Phương.
Các danh họa ấy đã nói được một điều: tranh lụa có
khả năng để trở thành một tiếng nói riêng của hội họa Việt Nam. Những chân dung
thiếu nữ, các bà mẹ, trẻ thơ, mấy đứa trẻ chơi ô ăn quan, một bé gái mặc chiếc
áo dài đỏ rực rỡ ngồi bên chậu hoa nhỏ... của những Mai Trung Thứ, Nguyễn Phan
Chánh, Lê Phổ, Lê Văn Đệ. Tất cả những hình tượng tỏa ra một không gian riêng
rất Việt Nam, một hồn thơ chìm vào bên trong như chiếc thuyền chở đầy hoa thơm
ngát trôi qua trên giòng sông ký ức.
Điều này chúng ta cũng sẽ cảm ra được khi nhìn ngắm
và thưởng lãm tranh lụa của Nguyễn Thị Hợp. Những khuôn mặt phụ nữ yêu kiều,
thanh nhã bên đàn chim và rừng hoa rạng rỡ, ríu rít. Những em bé tinh anh, hồn
nhiên. Với bộ tứ bình Xuân-Hạ-Thu-Đông, với các thiếu nữ Nội Duệ-Cầu Lim trong
chiếc áo tứ thân của vùng Bắc Ninh văn vật, Nguyễn Thị Hợp đã phác lại được
hình ảnh đẹp và tượng trưng của làng quê gốc gác của thời thơ ấu.
Nguyễn Thị Hợp cũng thích tìm kiếm và ghi lại bóng
dáng người phụ nữ khỏa thân. Khỏa thân nhưng mông lung và mơ hồ. Chúng ta có
thể nhận ra đôi chút dư vang của Renoir và Modigliani, nhưng tất cả đều đã tinh
lọc để trở nên trong suốt và vô cùng thơ ngây,
Tất cả tranh lụa Nguyễn Thị Hợp đều được diễn đạt
bằng những nét vẽ rất thông minh, sắc bén, tinh tế, và những bảng màu nhẹ nhàng,
thanh thoát, bay bổng.
Tôi nhớ đến một câu nói của Lê Phổ mà Đinh Cường đã
nhắc lại trong một bài viết về bậc thầy này: "Tôi vẽ làm sao cho người ta
thích và treo lên tường. Với tôi, vẽ là hành hương vào nội tâm. Vẽ là giú một
trái chín. Con đường dài lắm..." Đứng trước những bức tranh lụa của Nguyễn
Thị Hợp, tôi cũng có cảm giác rất gần với ý tưởng ấy của Lê Phổ.
*
Nửa thế kỷ đi qua. Nhìn lại cuộc hành trình dài sống
với cái đẹp thực kỳ diệu quá.
Người nữ họa sĩ trang nhã từ đất Kinh Bắc văn vật và
chàng trai nghệ sĩ của sông nước Nam bộ đã hài hòa trên đường bay mênh mông của
nghệ thuật. Và hôm nay, chúng ta cũng thực là may mắn đứng nơi cột mốc này để
chia sẻ và nhìn lại 50 năm sinh hoạt của hai người làm nghệ thuật ấy.
Calif. 4. 2018
HUỲNH
HỮU ỦY
_____________________________________________________
(*) Hai tập
sách Truyện Cổ Tích Viêt Nam và Vần Việt Ngữ của Trần Thị Minh Phước, Nguyễn Thị Hợp và Nguyễn Đồng minh họa cho
Tuttle Publishing, đã đạt được nhiều giải thưởng về sách thiếu nhi:
- Vietnamese Children's Favorite Stories
- My First Book of Vietnamese Words
Phải kể thêm việc vẽ phụ bản và minh họa cho một số
ấn phẩm của Thầy Nhất Hạnh.
Những công trình này cũng là cơ duyên giúp hai nhà
minh họa đến với thế giới và đã trở nên quen thuộc với vô số người đọc. Riêng
tôi, cầm quyển Vần Việt Ngữ trên tay, tôi có cảm giác như được chạm vào một
phiến ngọc quý.