Đêm trăng trên bãi biển Duồng - Ảnh Benkhang
Tuổi
già ngồi nhớ vu vơ
xa
xưa ... một cõi đời Thơ chiến trường.
Trước
1975, tôi làm thơ rất ít, thường chỉ chép tặng hay đọc cho bạn bè nghe trong những
giờ rảnh rỗi của đời lính, ai gọi là “nhà thơ” thì thường thấy hổ thẹn, không
dám nhận. Thấy thơ mình “đơn giản quá, nhẹ quá”, tôi không dám gởi cho báo nào
cả.
Tuy
nhiên có một trường hợp đặc biệt: bài thơ Đêm
kích dưới chân đồi Pá được
đăng trong Khởi
Hành số
29 (theo trí nhớ). Đặc biệt, vì không do tôi gởi báo mà do bạn bè gởi và đặc biệt
vì đó là bài thơ duy nhất của tôi được đăng báo.
Thơ
thời lính chiến và bài thơ trên báo Khởi Hành
Tháng
8/1968, tôi rời Trường Bộ Binh Thủ Đức về Tiểu khu Bình Thuận. Trước đó, khi
còn ở quê nhà Dran, cách Đà Lạt 36km, một quận lỵ nhỏ phủ đầy sương, đẹp và buồn,
sau giờ dạy học, là trưởng ban văn nghệ và thủ quân đội túc cầu của quận, tôi
thường xuyên tổ chức các buổi trình diễn văn nghệ và đá banh, ít để ý đến chuyện
thơ văn. Tuy vậy, tôi cũng có giờ rảnh để đọc Kim Dung, Phổ Thông, Tiểu Thuyết
Thứ Bảy... (ông ngoại tôi đặt mua dài hạn nhiều tạp chí và mua đủ các bộ truyện
Kim Dung).
Những
ngày trước khi xa Dran, tôi không biết Sao Trên Rừng đã mọc lên ở đây (Nguyễn Đức
Sơn), họa sĩ Đình Cường đã từng có ở đây nhiều bức tranh rất đẹp, nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn đã từng đến bưu điện Dran gởi thơ cho Dao Ánh và nhà văn, nhà thơ Trần
Hoài Thư cũng đã qua thời thơ ấu ở Dran.
Giữa
năm 1969, mê cô bé mười sáu tuổi bán rau ở chợ Duồng (quận Hòa Đa, Bình Thuận),
tôi bỏ Ban 3 Bộ chỉ huy hành quân liên Chi khu Bắc Bình Thuận ở Sông Mao, xin
ra tác chiến, về một Đại đội Biệt Kích Mỹ đồng hóa địa phương quân đóng đồn ở
ngã ba Duồng (nơi Phạm Cao Hoàng viết bài thơ Bạch tiễn tôi ở ngã ba Duồng được nhiều người yêu thích). Qua anh
trai cô bé, tôi được cho ở trọ nhà nàng trong những ngày nghỉ phép hay khi rảnh
việc quân. Nàng đẹp, hiền hậu chân quê. Tình tôi và nàng mới vừa nhen nhúm thì
mẹ nàng sợ tên sĩ quan lỳ lợm trong khi con gái mình còn quá nhỏ nên gởi nàng
lên Di Linh ở với chị. May mà không hiểu sao một năm sau bà gọi con gái về lại
và nhận tôi là rể.
Ở
chung nhà, tôi thấy Phạm Cao Hoàng hay ngơ ngơ ngẩn ngẩn làm thơ, chép
vào một quyển vở học trò (đôi khi tôi lén đọc mấy bài thơ tình trong quyển vở
Phạm Cao Hoàng bỏ quên ở nhà khi đến lớp dạy). Lúc ấy tôi cũng đang ngẩn ngẩn
ngơ ngơ vì nàng bị mẹ gởi lên tận vùng núi Di Linh, bao nhiêu là nhung nhớ vì
cách xa. Tôi viết được hai câu:
Vói
tay cao hết sức mình
níu
cao nguyên xuống để nhìn thấy em
rồi
đưa cho Phạm Cao Hoàng xem. Phạm Cao Hoàng gật gù: “Ông làm thơ được đấy chứ!
Làm tiếp đi”. Được khen, tôi vui lắm và từ đó rắp tâm làm thơ.
Thơ
tình thì chỉ hai câu trên là bí, “hết sức mình rồi”. Đêm giao thừa 1969 – 1970,
tại đồn đóng quân, tôi viết bài thơ lính đầu tiên Đêm
cuối năm viết cho má, rồi
viết tiếp một số bài trong năm 1970.
Lần
hồi, tôi quen thêm Từ Thế Mộng, Nguyễn Thanh Trịnh (Đoàn Thạch Biền), Nguyễn Lệ
Tuân, Huỳnh Hữu Võ, Tô Duy Thạch, Đài Nguyên Vu, Cao Nhật Vũ ở Phan Rí, Nguyễn
Bắc Sơn, Lê Văn Chính ở Phan Thiết và tập tễnh gia nhập làng văn thơ địa phương
Bình Thuận dù mình là nghiệp dư nhất.
Trong
những lần đọc thơ, ca hát lúc họp mặt bạn bè văn thơ, Nguyễn Lệ Tuân hay đọc
bài Đêm cuối năm viết cho
má của
tôi, giọng nghẹn ngào, mắt rưng rưng nghe thật cảm động. Cũng cảm động không
kém khi một số lính trong tỉnh lại thuộc bài Chiều
trên rừng trong mật khu Lê Hồng Phong. Riêng
bài này, tôi đã chép tặng Đại úy Đặng Trung Đức, Tiểu đoàn trưởng TĐ 1, TrĐ 44,
SĐ 23 Bộ Binh mà tôi quen trong dịp đội bóng của Đại đội tôi đá giao hữu với đội
bóng TĐ1/44 mà tôi và Đ/U Đức là cầu thủ của hai bên. Nhận bài thơ, Đ/U Đức tặng
lại cho tôi 100 trái mìn claymore để tăng cường phòng thủ đơn vị và về sau có
người cho tôi biết Thiếu tá Đức đã tử trận ở Komtum, khi lấy xác trong túi anh
còn bài thơ này. Hình ảnh trẻ trung, say mê thơ và đàn hát của anh Đức
tôi vẫn còn nhớ.
Một
hôm, Huỳnh Hữu Võ đưa cho tôi tờ Khởi
Hành số
29, bảo mở ra xem. Tôi thật bất ngờ khi thấy bài thơ Đêm kích dưới chân đồi Pá được in ở góc trên một trang
bên phải, đặc biệt có tranh minh họa của họa sĩ Nguyễn Hải Chí vẽ một thiếu nữ
có mái tóc dài bồng bềnh thật dễ thương. Tôi hỏi “ Ông gởi phải không?” Huỳnh Hữu
Võ không đáp, chỉ cười.
Làm
sao nói hết nỗi vui khi cầm tờ Khởi
Hành số
29 trên tay? Tôi như một đứa trẻ bất ngờ được quà. Tôi nhảy múa hò reo. Chiều
đó tôi đãi ra trò bạn văn nghệ, vừa lai rai, vừa đọc, ngâm thơ, đàn ca sáo thổi.
Nói thêm về chuyện đàn ca sáo thổi: dù tôi ở đơn vị tác chiến, Quận/ Chi Khu
Trưởng Hòa Đa, Bình Thuận giao cho tôi đội văn nghệ và đội bóng đá của quận. Kịch
thì có lính, ca và vũ có lính và nữ sinh Trung học do giáo sư dạy môn Triết
Nguyễn Thanh Trịnh tiến cử, có lúc tôi đưa cả Phạm Cao Hoàng lên sân khấu hát với
lời giới thiệu là ca sĩ Hoàng Phúc. Phạm Cao Hoàng làm thơ, ngâm thơ và hát đều
hay cả.
Khởi
Hành số
29 ở chung với tôi đến ngày di tản. Sau ngày cải tạo về, anh vợ tôi cho hay đã
đốt hết Khởi
Hành chung
với Văn, Bách Khoa, Thời Tập và mấy trăm bản nhạc, một số tập nhạc vì
sợ...
Sau
1975, số phận những bài thơ thời chiến
Suốt
mấy năm đời lính, tôi cũng như nhiều người làm thơ trong QLVNCN, cũng như hạ sĩ
quân y TK Bình Thuận, hội viên Hội Văn nghệ sĩ Quân đội Nguyễn Văn Hải (Nguyễn
Bắc Sơn, trước là Thông dịch viên Biệt kích Mỹ):
Đi
hành quân rượu đế vẫn mang theo
mang
trong đầu những ý nghĩ trong veo...
cả
khi cải tạo về, tôi cũng vẫn “trong veo”:
Cải
tạo về lên non phát rẫy
vợ
lo phe phẩy, ta tiều phu
độc
lập, tự do, hạnh phúc nhất
vừa
làm chủ vừa làm bí thư
Tả
xung hữu đột tan cây cỏ
phút
chốc một vạt Đông Trường sơn
súng
đạn thua rồi , nay trận rựa
chiến
chinh, chinh chiến ta coi thường...
Suốt
một năm đầu tôi phải ăn bám vợ, cứ nửa tháng một lần nàng vào rừng tiếp tế cho
tôi gạo, mắm, thuốc lá. Thực phẩm thì tôi có thừa nhờ một làng cá trắng dưới
con suối nhỏ kề bên chòi lá của tôi. Tôi phá núi trồng khoai lang “thành công tốt
đẹp”: bụi nào cũng có củ nhưng thường nhỏ rí hay sùng. Sau đó, nhờ có người giới
thiệu, tôi bỏ rẫy đi buôn phân bón. Chỗ phân xác cá nhiều và tốt nhất lại là
Bình Thuận. Tôi lại có rất nhiều dịp về “chiến trường xưa”, gặp lại bạn thơ,
lính cũ.
Một
ngày khoảng đầu thập niên 80 của thế kỉ trước, tôi được mời tham dự đám
cưới con gái đầu của nhà thơ Từ Thế Mộng tại nhà anh ở Phan Thiết. Tại đây,
ngoài hát giúp vui đám cưới còn có mục đọc thơ. Sau khi Nguyễn Bắc Sơn đọc bài Nhị hồng, Từ Thế Mộng gọi tôi và giới
thiệu luôn tựa đề bài thơ phải đọc Chiều
trên rừng trong mật khu Lê Hồng Phong. Tôi
sợ quá, lỡ có ông cán bộ hay công an nào trong đám khách trên trăm người này
thì sao? Làm sao tôi còn được lên xuống Đà Lạt – Phan Thiết buôn bán làm ăn? Sợ,
nhưng phải liều, vẫn chất lính mà! Nhờ vừa đọc vừa hát (rải trong bài thơ 7 đoạn
có 3 câu là các nốt nhạc của bài hát O’Cangaceiro!), tôi được tán thưởng khá nồng
nhiệt, khán thính giả vừa vỗ tay vừa la ...không ó. Lúc này chỉ mới vài năm sau
“giải phóng”, tôi “cự nự” Từ Thế Mộng, anh cười hết cỡ bảo “Có gì đâu!”.
Ít
lâu sau, một hôm tôi theo Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Như Mây, Lê
Nguyên Ngữ đến dự buổi đọc thơ do Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Thuận Hải tổ
chức (lúc này Thuận Hải chưa tách thành 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận). Tôi
nhìn quanh trong hội trường thấy lưa thưa vài “ngụy”, một số ít bộ đội, còn lại
đa số là cán bộ chắc cũng xuất thân từ bộ đội. Khi được giới thiệu đọc thơ, tôi
quyết định “thử phổi” cả hội trường và cả tôi bằng bài Đêm kích dưới chân đồi Pá, không ngờ lại “thành công tốt
đẹp”, bình an vô sự, những tiếng khen nhân văn, nhân bản râm ran.
Từ
đó, tôi “hiên ngang” đọc những bài thơ cũ viết trong thời chiến của mình trong
nhiều buổi đọc thơ cho dù có người tán thưởng, có người chau mày, nhìn chỗ
khác. Tôi vẫn “bình an vô sự”, có lẽ vì số hên.
Năm
1997, Trinh Đường (1921 – 2001), một nhà thơ lớn tuổi từ Hà Nội vào Nam sưu tầm
thơ để thực hiện Một
thế kỉ thơ Việt. Một
lần dừng chân tại Đà Lạt, ông tổ chức một “buổi giao lưu thơ đặc biệt” gồm sáu
người: một bên là ba sĩ quan cấp tá bộ đội, một bên là tôi, Huỳnh Hữu Võ và Tô
Duy Thạch. Cả ba bộ đội đọc một số bài thơ chiến đấu nảy lửa, phía ba người
chúng tôi đọc các bài thơ mình viết trong thời chiến và đọc thêm thơ của Tô
Thùy Yên, Nguyễn Bắc Sơn (Tô Duy Thạch còn nhớ một số đoạn trong bài Trường Sa hành và nhất là đoạn I của bài Chiều trên phá Tam Giang của Tô Thùy Yên). Kết thúc buổi giao lưu,
nhà thơ Trinh Đường tuyên bố: “trong đời tôi đã dự hàng ngàn buổi đọc thơ nhưng
hôm nay là buổi đọc thơ tuyệt vời nhất”. Sau đó, ông nói riêng với chúng tôi: Miền Nam nhân văn, thơ hay lắm, thua là
phải.
Bước
ngoặc của số phận những bài thơ thời lính chiến của tôi được đánh dấu bằng việc
các anh Trần Hoài Thư và Phạm Văn Nhàn thực hiện Bộ sưu tập Thơ miền Nam trong thời chiến. Từ
đó hầu hết các bài thơ thời chiến của tôi đã được in trong hai tập Thơ miền Nam trong thời chiến
tập I, II và các số Thư
Quán Bản Thảo.
Nguyễn
Dương Quang
Ảnh Phạm Cao Hoàng - Đà Lạt, tháng 8.2016
Thơ
miền Nam trong thời chiến phát hành ở Mỹ, tuy nhiên tiếng
vang ở Việt Nam rất lớn. Do số sách chuyển về không nhiều, cũng như một số ít
người khác có được bản chính, tôi photo ra cho một số bạn thơ. Tôi có tặng bản
photo cả hai tập cho một nhà giáo, nhà thơ dạy môn Văn tại Đại học Đà Lạt để
anh nghiên cứu theo lời anh yêu cầu, anh rất thích tuy vẫn thắc mắc là làm sao
có chuyện sĩ quan QLVNCH ra lệnh thả nữ Việt Cộng? Tôi cười đoan chắc với anh
là không chỉ có mỗi trường hợp Linh Phương mà cả miền Nam còn một số trường hợp
khác dù các nữ Việt Cộng ấy không chắc đã đẹp bằng con gái Sài Gòn, hình như
anh tin.
Năm
2012, tôi in tập thơ riêng Đêm
ôm đàn uống rượu một mình. Nhà
xuất bản thứ nhất lắc đầu, NXB thứ hai bỏ 6 bài trước 1975 và một phụ bản
tranh Đinh Cường, NXB thứ ba bỏ hai bài viết sau 1975. Giữ được tất cả các bài
thơ trong thời lính chiến, tôi mừng vô hạn. Thế là số phận các bài thơ đời lính
trước 1975, các bài tâm huyết nhất, từ Khởi
Hành đến Thư Quán Bản Thảo, đến tập thơ riêng, trở thành
“trên cả tuyệt vời” đối với tôi.
Nửa
đêm chợt nhớ bài thơ cũ
Tuổi
già, ngoài việc lo chống chọi với bệnh tật, chỉ còn lại ký ức: tuổi thơ của
mình trong đó có những bài thơ của mình.
Đêm
kích dưới chân đồi Pá. Cám
ơn nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư đã trích, đã nói hộ tôi gần như trọn vẹn
trong bài “Tính nhân bản trong văn học miền Nam” in trong Thư Quán Bản Thảo số 58. Dưới chân đồi Pá, đêm
thật im vắng chờ đợi phút giây chết chóc xảy đến, người lính tôi hoàn toàn tự
do trút những ý nghĩ chân thật của mình về cuộc chiến lên vỏ bao thuốc lá chờ
sáng mai chép lại gởi bạn bè văn thơ đọc. Và bản thảo ấy đến với Khởi Hành, được
chấp nhận. Sau này, có thì giờ, được đọc hai nền văn học Nam, Bắc Việt Nam
trong các giai đoạn, tôi hiểu đâu là văn chương tự do, báo chí tự do.
Khi
được nghe kể lại về cái chết của Chuẩn Úy Nguyễn Văn Uy (nhà văn Y Uyên), bạn đồng
khóa Thủ Đức với tôi và cùng về Tiểu khu Bình Thuận : trúng viên đạn đầu tiên
anh đã ngã chết, nhưng sau đó, khi thấy cái lon Chuẩn Úy gắn trên nắp túi áo,
những người phía bên kia đã trút tiếp lên ngực anh cả một băng đạn, nát hết ngực,
tôi hiểu những người đó đã được dạy về lòng thù hận con người đến mức nào! Uy
chết cách chỗ tôi chỉ khoảng 40 km.
Đêm
kích dưới chân đồi Pá. Mìn claymore đã được gài sẵn, súng hờm sẵn,
đơn vị tôi nằm rải bên bờ mương khô chờ những người đã được dạy rất kĩ lòng thù
hận con người kia “vác hận thù đi xuống”. Riêng tôi còn chờ một thứ khác hơn:
ngọn đồi này mai sẽ thành rẫy.
Tôi
không có lòng thù hận con người, tôi không thích chiến tranh. Nhưng, tôi đã sống
trọn vẹn với chiến tranh, đến 18 giờ chiều 29/4/1975, tại Bãi Sau Vũng Tàu, khi
những người phía bên kia từ trại Chí Linh dày đặc tiến lên đồi cát và Tiểu
đoàn ban lệnh Đại đội (vừa tái thành lập sau di tản, ngày 27/4) rút về Bãi Trước,
để lại lưng đồi vì không thể lấy xác một thiếu úy và hai binh sĩ chết vì đạn
pháo 130 ly từ Long Hải bắn qua suốt ngày 29; đến 9 giờ sáng ngày 30/4/1975,
sau khi nghe lệnh phát ra từ Tổng Thống Dương Văn Minh, đại đội tập họp bên
gành đá Bãi Trước, ném hết súng đạn xuống biển, ngậm ngùi chia tay, tìm phương
tiện về quê.
Cỏ sẽ
thấy người nắm tay người. Sau ngày cải tạo về, tôi cũng nắm được
một số bàn tay nhưng tôi cũng hiểu vì sao những bàn tay nắm không được chặt.
Một
lần gặp nhau, Nguyễn Bắc Sơn đưa cho tôi một bài thơ chép tay tựa là Ngộ nhận. Buồn cười là Ngộ nhận viết về việc vợ chồng cãi
nhau, nhưng tôi chú ý đến đoạn sau:
Xin
em ngừng tiếng nói
Hai
ta nói lộn lời
Máu
của dân ta còn chảy ngược
Bao
giờ giọng nói chảy về xuôi?
Giọng
nói hai vợ chồng Nguyễn Bắc Sơn chẳng mấy chốc đã chảy về xuôi. Còn giọng
nói của dân tộc ta? Mấy mươi năm tôi cố lắng nghe. Lắng nghe. Gần đây tôi cũng
thấy vui vì có một tờ báo văn học trên mạng trong nước đã đăng một loạt bài về
Văn học miền Nam, đăng bài của Trần Hoài Thư, đăng nguyên văn bài giới thiệu Thơ Miền Nam trong thời chiến của nhà phê bình văn học Đặng Tiến...
Tôi lại vừa đọc được một bài thơ của nhà thơ cựu bộ đội Trần Mạnh Hảo viết
trong một buổi viếng mộ một người em trai trong nghĩa trang Quân đội Việt Nam Cộng
Hòa tại Biên Hòa, trong đó có đoạn:
Em nằm
đây hóa đất này
Chết
cho điều có thật
Là đất
nước đắng cay
Anh
cầm súng cho điều hoang tưởng
Tôi
vừa nghĩ một điều rất tầm thường: khi tất cả mọi người đều
cùng nhau bình tâm nhận định thật rõ về những điều có thật và những điều hoang
tưởng thì lúc ấy giọng nói sẽ chảy về xuôi.
Lời
bày tỏ những ý nghĩ của mình trong một đêm chiến cuộc được Khởi Hành phổ biến giới thiệu cho những
người đọc tôi nghĩ đa số là những quân nhân trong QLVNCH , xin cám ơn anh Viên
Linh. Những bài thơ trong thời chiến của tôi được Thư Ấn
Quán, Thư Quán Bản Thảo phổ biến giới thiệu cho những người đọc
thuộc đủ mọi thành phần hiện nay ở ngoài và cả trong nước, xin cám ơn các anh
Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Đặng Tiến. Tôi cũng xin cám ơn những người bạn đã
đánh máy, gởi chuyển giới thiệu thơ tôi đến Khởi
Hành, Thư Quán Bản Thảo: các
bạn Huỳnh Hữu Võ, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Lệ Uyên.
NGUYỄN DƯƠNG QUANG
Đà Lạt, 06/11/2014
Nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 62 – Tháng 12.2014 – Chủ đề KHỞI HÀNH VÀ TÔI
Từ trái sang phải:
Ngồi: 1.Thái Văn Thạnh 2.Huỳnh Hữu Võ
4.Nguyễn Dương Quang 5.Hàn Sa
Đứng: 1.Nguyễn Lệ Tuân 4.Vũ Đức Sao Biển 6.Tô
Duy Thạch 8.Phạm Cao Hoàng
(Ảnh chụp ở Duồng năm 1970)