Một
ngày cuối tháng 8-2014, bà Nataliya, một phụ nữ cao niên người Mỹ gốc Ukraine
khi xem một đoạn phóng sự quay cảnh đổ nát và đầy những dấu tích bom đạn của
thành phố Slavyansk, bà đã không cầm được nước mắt. Rồi khi nghe một phụ nữ đồng
lứa tuổi nói, “cảnh tàn phá trong thế chiến thứ hai cũng không như thế này,
không điện, không hơi đốt, không nước máy”, bà đã khóc òa lên.
Bà Nataliya sinh ra ở
Donetsk, nhưng lớn lên ở Slavyansk, đã trải qua những ngày tuổi trẻ đầy hoa mộng
sau chiến tranh ở đó. Bà nói:
“Có đất nước nào chịu nhiều
thảm họa như đất nước Ukraine không? Có dân tộc nào chịu nhiều đau thương như
dân tộc Ukraine không?”
Tôi nói về những đau thương khốn cùng của dân tộc Việt và của đất nước
Việt Nam, là để nhằm chia sẻ thôi, không ngờ bà lại càng bi phẫn hơn:
“Dân
tộc Việt Nam các anh dẫu có chết cũng được chết dưới ánh mặt trời, còn dân tộc
Ukraine chúng tôi đã phải chết trong bóng tối. Những thảm họa mà dân tộc
Ukraine phải gánh chịu là những thảm họa câm lặng. Riêng Holodomor thôi, hàng
triệu người Ukraine đã câm lặng đi vào cõi chết. Cho đến tận hôm nay, máu của
những nạn nhân Holodomor vẫn kêu gào đòi công lý, đòi sự thật phải được phơi
bày ra ánh sáng, đòi phải quật mồ những tên tội phạm gây tội ác chống nhân loại”.
Các
sử gia Ukrainian cho rằng, khi nông dân Ukraine chống lại chủ trương hợp tác
hóa nông nghiệp, Stalin và Trung ương Xô Viết đã trừng phạt bằng cách tạo ra nạn
đói để giết chết trên mười triệu người Ukraine. Thảm cảnh này về sau có tên là Holodomor.
Theo
từ điển Ukraine xuất bản năm 2004, Holodomor là nạn đói nhân tạo được tổ chức bởi
một thể chế tội phạm với quy mô rộng lớn nhằm chống lại một dân tộc. (1)
Bà
Nataliya nói tiếp, “Chế độ Xô Viết dưới thời Stalin nghẹt thở đến mức, khi quân
Đức đến, người dân Ukraine đã có hành động nông nỗi là dang tay chào đón. Đến
khi quân phát-xít dùng nhà dân làm doanh trại, và kềm kẹp bóc lột dân tôi đến tận
xương tủy, bấy giờ dân Ukraine chúng tôi mới trắng mắt ra: hai cái chủ nghĩa ấy,
chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát-xít, chúng nó là anh em có cùng huyết thống”.
Khi
nghe Nataliya nói, “Những thảm họa mà dân tộc Ukraine phải gánh chịu là những
thảm họa câm lặng”, tôi nghĩ bà có bao gồm luôn vụ nổ Chernobyl. Nhưng điều
đáng ngạc nhiên là bà Nataliya hiểu khá mơ hồ về thảm họa môi trường khủng khiếp
này. Năm 1946, bà lấy chồng là phóng viên của một hãng tin rồi theo chồng sang
Mỹ. Vụ nổ nhà máy nguyên tử Chernobyl xảy ra năm 1986, tức 40 năm sau ngày bà rời
khỏi tổ quốc, nhưng việc thiếu thông tin có lẽ không phải do khoảng cách, do thời
gian mà do bị bưng bít. Tôi nói, “Chernobyl là tai nạn hạt nhân lớn nhất thế giới,
không chỉ vùng gần nhà máy thuộc biên giới Ukraine-Belarus bị nhiễm độc nặng,
phóng xạ nguyên tử đã làm ô nhiễm ba phần tư Châu Âu. Vì thói độc tài, vì thiếu
hiểu biết, và vì sợ dân chúng hoảng loạn, Trung Ương Xô Viết và giới thẩm quyền
địa phương đã trấn an dân rằng không có gì phải lo lắng. Rằng đám cháy đã bị dập
tắt và chỉ có vài người lính cứu hỏa bị thiệt mạng. Và thế là, vụ nổ xảy ra
ngày 26.4.1986, sang đầu tháng 5.1986, nhân Lễ mừng chiến thắng, khắp nơi trên
hai nước cộng hòa, các quân binh chủng, các ban ngành, đoàn thể vẫn rầm rộ diễn
hành. Mọi sinh hoạt đều diễn ra bình thường, một ngày như mọi ngày, ngoài đồng
nông dân vẫn chăm sóc khoai tây; trong làng, các bà nội trợ vẫn vắt sữa bò, làm
bánh; công nhân viên chức vẫn đến sở làm… Nhưng rồi có lệnh sơ tán. Hàng ngàn
ca phá thai. Những thai nhi được xem là bị nhiễm xạ nhẹ hơn được sinh ra cũng
đã chết non vì những bệnh quái lạ”…
Tôi
đưa cho bà Nataliya quyển “Voices from Chernobyl” của Svetlana A. Alexievich và
cho bà hay nữ ký giả này có quê mẹ là Ukraine, quê cha Belarus. Tác phẩm vừa đoạt
giải Nobel văn học 2015. “Đây là những tự thuật gây xúc động, mỗi lời độc thoại
đều thể hiện sự uất hận, nỗi sợ hãi, sự dốt nát, thói ích kỷ, chủ nghĩa anh
hùng, lòng trắc ẩn, và tình yêu… Phần kết, tác giả viết: Tôi có cảm tưởng như mình đang làm
công việc ghi chép tương lai”.
Mấy
ngày sau bà Nataliya gọi phone nói bà có việc cần tôi giúp đỡ. Đến nhà, bà đưa
ra quyển “Voices from Chernobyl” bản tiếng Anh của Keith Gessen, “Nếu anh đã đọc
rồi thì anh biết rõ những trang tinh túy nhất của tác phẩm. Tôi muốn anh đọc
cho tôi nghe những trang ấy”. Tôi cầm quyển sách, ngần ngừ không biết nên làm
gì. Cuối cùng tôi nói, “Tác giả đã liều mình tìm gặp và trò chuyện với hàng
ngàn nạn nhân còn sống sót; thu góp, chắt lọc những lời tự thuật không chút giá
trị rồi biến cải thành một tác phẩm văn học có tầm vóc lớn. Toàn quyển sách là
một khối chuông đúc bằng vàng ròng, từ đó phát ra tiếng vọng: - Đừng để thảm họa tương tự Chernobyl lặp
lại”…
“Anh
hãy gióng tiếng chuông ấy lên, từng trang một, tôi thực sự muốn nghe. Tôi tha
thiết muốn nghe tiếng vọng từ Chernobyl”.
Tôi
không muốn tách khối vàng ròng ấy rời ra, nhưng để chiều lòng một lão bà muốn
biết những gì mà đồng bào ruột thịt mình đã và đang hứng chịu, tôi đã cố gắng. Tôi
xin bà cho vài hôm để chuẩn bị.
Sau
đây là những phần tôi đã chọn, đọc cho bà ấy nghe. Tôi không chúi mũi đọc một mạch,
mà thỉnh thoảng dừng lại để quan sát vẻ mặt của Nataliya, sợ bà vì quá xúc động
mà xảy ra tai biến gì chăng? Và ngay trong những khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, tôi
đã kịp độc thoại từ dòng cảm do Svetlana A. Alexievich dẫn dắt. Tôi gọi đó là
“Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng Từ Chernobyl”.
…Trứng,
thịt, sữa bày bán ở chợ không còn là thực phẩm mà là phế phẩm nhiễm độc… Thế mà
người dân vẫn dùng, thậm chí còn được chuyển đi đâu đó để bán… Chúng tôi kiểm
tra độ nhiễm xạ của lũ trẻ trong những ngôi làng, cả trai lẫn gái… Số đo cao đến
mức mấy bé gái này khi lớn lên sẽ không sinh nở được… Khi chúng tôi đến khu vực
Pripyat (cách Chernobyl 15 km), thấy người ta dựng lều, cắm trại với gia đình.
Họ bơi lội, tắm nắng. Đã mấy tuần nay rồi, không một ai biết rằng mình đang tắm
táp dưới một đám mây đầy phóng xạ nguyên tử. Trò chuyện với họ là điều bị
nghiêm cấm… Ôi cái thứ quyền lực ấy! Thứ quyền lực vô giới hạn mà người ta có
thể áp đặt lên kẻ khác. Nó không còn là mánh khóe hay sự dối trá nữa. Mà là cuộc
chiến tranh nhằm tiêu diệt những người vô tội. (2)
Vasily B. Nesterenko, nguyên Giám
đốc Viện năng lượng hạt nhân thuộc Hàn Lâm Viện Khoa học Belarus.
(Ở
Việt Nam, một thảm họa môi trường đã xảy ra, và cách đối phó của giới thẩm quyền
cũng tương tự như 30 năm trước ở Chernobyl. Ngày 6.4.2016, ngư dân xã Kỳ Lợi, Kỳ
Anh, Hà Tĩnh phát hiện cá nuôi lồng bè trên biển chết hàng loạt. Cùng ngày, cá
tự nhiên chết hàng loạt, dạt lớp lớp vào bờ, và nhanh chóng bùng phát như dịch
bệnh. Cả nước chấn động… Cá chết khủng khiếp dọc mấy trăm cây số duyên hải từ
Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, đến ngày 29.4 tới Đà Nẵng. Tỉnh
Quảng Bình nặng nhất, tới ngày 29.4, thu gom được 100 tấn cá chết. Ngày 30.6.2016, giới hữu trách đã đưa ra kết luận chính thức:
“Chất thải có chứa độc tố từ nhà máy Formosa Hà Tĩnh là nguyên nhân của thảm họa”.
Đây là một thảm họa môi trường có mức độ nguy hại lâu dài, rộng lớn, nhưng trong
mấy tháng qua, giới thẩm quyền vừa đàn áp biểu tình vừa trấn an dân chúng, rằng
không có gì phải lo lắng và nhất là không hoảng loạn, cứ sinh hoạt bình thường.
Các viên chức cao cấp ở một vài địa phương còn bày trò rủ nhau đi tắm biển, nướng
cá bắt tại chỗ ăn. Nói như Viện sĩ Vasily: “Đây không phải là mánh khóe hay sự
dối trá nữa. Mà là cuộc chiến tranh nhằm tiêu diệt những người vô tội”). Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng
Từ Chernobyl.
…Chúng
tôi ghé qua thăm một nhà giữ trẻ… Mấy đứa bé trông buồn hiu. Chúng tôi chọc ghẹo,
chúng vẫn không cười. Người coi trẻ bảo: “Đừng cố sức làm gì. Lũ trẻ của chúng
tôi không bao giờ cười. Và khi chúng ngủ thì lại khóc.”
…Mấy
người tài xế xe tải nói rằng đám bò này rất quái đản. Lông chúng mọc dài chạm tới
đất và khi đói thì chúng ăn bất cứ thứ gì tìm thấy - giẻ rách, giấy báo.
Irina Kiseleva, Nhà báo.
(Ở
Việt Nam, những chất độc hồi chiến tranh trong đó đáng kể nhất là chất độc da cam
- dioxin - đã gây ra bệnh ung thư máu cho biết bao phụ nữ, và có bao nhiêu trẻ
em bị khuyết tật? Các nhà khoa học không tìm ra mối liên hệ giữa chất độc da
cam và các bệnh tật kể trên. Nhưng ngày 24.5.2016 vừa qua, tại Hà Nội, trong
bài diễn văn của mình, Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama đã nói: “Chúng tôi cũng vừa
tiếp tục giúp đỡ người khuyết tật, kể cả trẻ em , vừa giúp khắc phục hậu quả của
chất độc da cam – dioxin - để Việt Nam có thể tái sử dụng thêm nhiều đất. Chúng
ta tự hào về công việc chung ở Đà Nẵng, và chúng tôi sẽ tiếp tục giúp đỡ các bạn
tại Biên Hòa” …Gần nhà tôi ở Nha Trang - Việt Nam, có một cháu trai tên Hùng,
được xác nhận là bị nhiễm dioxin. Trông cháu cũng buồn hiu như những đứa trẻ ở
Chernobyl. Cháu đã chết mà chưa từng biết đến nụ cười trẻ thơ). Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng
Từ Chernobyl.
…Đất
lấy đi tất cả - người tốt, xấu, kẻ tội đồ. Trên quả đất này làm gì có công lý… Tôi
đang chờ chết. Tôi không sợ chết, nhưng khó quá. Nhà thờ bỏ hoang. Cha xứ không
quay lại. Không có ai để tôi xưng tội.
Một nông dân ở Pripyat
(Ở
Việt Nam, những năm 1965-1973, tại nhiều vùng nông thôn đồng bằng cũng như miền
núi, dân chúng tản cư lánh nạn, làng xóm
xơ xác chỉ còn một vài người già liều mạng ở lại. Chùa và nhà thờ hoang phế,
dây bìm bìm bò cả lên bệ thờ. Một lão ông ở cạnh nhà thờ Kỳ Sơn tỉnh Quảng Tín
cũng đã nói với tôi những lời tương tự. Rằng: “Tôi không sợ chết, nhưng tôi
không cam lòng nhắm mắt khi không được xưng tội). Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng
Từ Chernobyl.
…Dân
làng bị buộc di tản không được đem theo thú cưng. Những con chó bị bỏ rơi đợi
chủ quay về. Chúng quẫy đuôi mừng khi thấy có người vào nhà và không ngần ngại
chạy đến khi nghe gọi. Chúng tôi bắn chết chúng ngay trong nhà, ngoài kho nông
cụ, giữa sân. Vào cuối ngày, khi đã giết đủ chó và chất đầy xe tải, chúng tôi
lái xe đến “nghĩa trang chó”, trút xuống một cái hố tạm gọi là “huyệt mả”. Vào
một buổi chiều, khi trút hết xác chó xuống hố, có một con chó đen nhỏ xíu bỗng
đâu từ đống xác chết loạng quạng đứng lên. Con chó con thuộc giống poodle này cố
sức bò lên, bò về hướng chúng tôi, những người đi giết chó. Cả đội không ai còn
lấy một viên đạn. Không còn một viên đạn nào. Cuối cùng chúng tôi đã đẩy con
poodle bé nhỏ ấy xuống rồi lấp đất, chôn sống. Điều này làm tôi ray rứt mãi…
Một đội viên trong Đội giết chó.
(Ở
Việt Nam, những năm 1945-1954, trong những vùng dân cư do Việt Minh kiểm soát,
giới thẩm quyền đã mở nhiều chiến dịch giết chó, gọi trại đi là“diệt Cờ Tây” (Cờ
Tây đây là quốc kỳ của thực dân Pháp). Nhưng người ta không trút xác chó chết
xuống “huyệt mả”, mà giết thịt, biến Cờ Tây thành Cầy Tơ bảy món - luộc, nướng,
xáo măng, chả chìa, đùm, rựa mận, dồi. Ngoài ra còn hát nghêu ngao: Sống ở đời
không ăn miếng dồi chó/ Chết xuống âm phủ biết có hay không. Nhưng mà, làng xóm
không bóng dáng một con chó, không tiếng chó sủa trở nên vắng lặng, cảm thấy bất
thường và rờn rợn thế nào ấy…) Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng Từ Chernobyl.
Như đã nói, thỉnh thoảng tôi ngừng đọc, ngước lên nhìn
Nataliya vừa thăm chừng vừa suy tưởng miên man, “độc thoại bên những trang
sách…”. Lần này, tôi thấy trên mặt bà có biểu hiện khác thường. Bà nhìn tôi đăm
đăm, đôi mắt xanh khuất sau những nếp nhăn ánh lên, rồi một dòng lệ ứa ra. Môi
bà mấp máy liên tục, hai hàm răng giả đánh bò cạp, người co quắp lại suýt nữa
té chúi nhủi xuống nền nhà. May mà cô y tá đứng trực bên cạnh đã kịp giữ bà lại.
Tôi đứng lên phụ với cô đỡ bà ngồi dựa vào ghế bành. Cô y tá cho bà thở ô-xy và
làm những động tác chuyên môn. Chặp lâu bà tỉnh dậy hỏi xin nước. Nhân chuyện
con poodle đen bị chôn sống, tôi định kể cho bà nghe một chuyện đau lòng không
kém về con bím trắng, con chó khôn lanh đã thoát khỏi cuộc bố ráp trong chiến dịch
“diệt Cờ Tây”. Nó sống một mình ngoài đồng, ngày ẩn núp trong các lùm bụi; tối
săn bắt chuột, thỏ hoang, chim cút, gà nước và cả vịt đàn vây ngoài đồng, để
mưu sinh. Những tay du kích bắn chó giỏi nhất cũng đành chịu thua. Để đối phó với
con bím trắng, giới thẩm quyền đã bày ra một mưu độc: bắt thằng bé con ông chủ
rồi đang đêm đem cột cháu vào một nọc trâu ở ngoài đồng để làm bẫy. Con bím trắng
tuy khôn ngoan, nhưng vì thương chủ và nhớ bạn, nó không dằn lòng được, đã đến
thăm, bị rơi vào cạm bẫy. Để hả dạ, đám du kích đã giết con bím trắng ngay tại
chỗ, quên cởi trói cho thằng bé. Nó muốn bưng mặt khóc, nhưng hai tay bị trói, đành
để cho nước mắt rơi lã chã xuống ngực áo…Tôi định kể, nhưng sự thể đã thế này,
thì việc đọc còn phải đình lại, nói chi đến chuyện này chuyện nọ kể bên lề.
Tôi cứ tưởng việc đọc sách thế là
chấm dứt. Chẳng dè, một tuần sau bà Nataliya lại gọi. Bà nói, “Tôi muốn tiếp tục
nghe tiếng vọng thê thiết từ chiếc chuông vàng của Svetlana Alexievich”. Khi
tôi lần giở các trang sách, bà nói, “Hy vọng các trang sau không quá ám ảnh và
xúc động như trang nói về con chó con giống poodle”. Nghe bà nói, tôi hiểu vì
sao trên các trang mạng tiếng Anh, khi giới thiệu quyển Tiếng Vọng Từ
Chernobyl, giải Nobel văn học 2015, các nhà phê bình thường chỉ trích trang tự
thuật giết chó, mà không trích những trang khác.
Việc đọc được tiếp tục, nhưng tôi
thận trọng hơn trong chọn lựa:
…Khi
mặt chồng tôi biến dạng, cấp trên cử đến một phái đoàn. Họ đem đến bằng tưởng
niệm có in hình Lenin. Đã mấy tháng rồi, ông nhà tôi không nói được vì những vết
mổ ở cổ, anh ấy phản đối bằng cách kéo mền phủ lên mặt mình. Tôi cầm bằng tưởng
niệm, nhìn hình Lenin, tự hỏi: Chủ nghĩa cộng sàn đã nổ tung cùng với vụ nổ
Chernobyl, sao người ta còn in hình ông vào đây? Mấy hôm sau chồng tôi qua đời.
Anh ấy chết rồi mà thi thể cứ nóng mãi, nóng đến mức tay trần không thể chạm
vào được… Có tin đồn rằng, kể cả khi chết rồi, xác những người ở Chernobyl vẫn
còn có thể phát ra những chất phóng xạ. Tôi có đọc được trong báo nói rằng những
ngôi mộ của lính cứu hỏa Chernobyl chết tại bệnh viện Moscow chôn ở Mitino vẫn
còn được coi là có khả năng phát xạ. Người ta không dám đến gần, cũng không dám
chôn cất người thân xung quanh đó. Người chết rồi lại cũng vẫn sợ người chết.
Valentina T. Panasevich, vợ một
thanh tẩy viên.
(Valentina
ơi, chủ nghĩa cộng sản không chỉ để lại di ảnh của Lenin thôi đâu. Dù đã nổ
tung, di họa của nó sẽ còn kéo dài, bây giờ và cả về sau này. Cũng như người anh
em cùng huyết thống của nó, chủ nghĩa phát-xít, còn mãi di họa thù hận chủng tộc
trong đầu óc những người tự cho mình là da trắng thượng đẳng; chủ nghĩa cộng sản
còn mãi di họa trong thói thị uy thị quyền, coi nhân dân là gà vịt, huênh hoang
rỗng tuếch, ích kỷ hẹp hòi, tự cao tự đại, thích ngồi trên đầu thiên hạ, đập ngực
tự xưng “ta là lương tâm nhân loại, là đỉnh cao trí tuệ loài người”, mà quên mất:
đã là ếch, thì dù ngồi đáy giếng hay đứng trên đầu nhân loại, bầu trời đối với chúng
cũng chỉ bằng cái nắp vung!). Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng Từ Chernobyl.
…Đúng
rồi đấy! Tôi đang bênh vực cho chính quyền Xô Viết đấy! Chính quyền của chúng
tôi! Chính quyền của nhân dân! Dưới chế độ Xô Viết, đất nước chúng ta hùng mạnh,
ai cũng nể sợ. Cả thế giới nhìn vào! Đã có kẻ sợ vãi đái. Đã có đứa chỉ biết
ganh tị. Đ.Mẹ! Đúng rồi đấy! Chính CIA chứ không ai vào đây! Chính bọn CIA đã
làm nổ nhà máy. Nếu Chernobyl không bị nổ, thì đế quốc hùng mạnh của chúng ta
đâu có bị tan rã như thế. Một đế quốc hùng mạnh. Đ.Mẹ! Giờ thì sao? Chúng ta được
gì dưới chế độ dân chủ? Chúng nó gởi đến đây kẹo thừa, bơ cặn, quần áo cũ như
thể chúng ta là những kẻ hoang dã vừa mới tụt từ trên những cành cọ xuống…
Một kẻ bênh vực chính quyền Xô Viết.
(Luôn
luôn như vậy, ở bất cứ nơi nào có làn sóng đỏ phủ qua, người ta đều suy nghĩ rập
khuôn: cái gì tốt đẹp là thuộc về tao, cái gì tào lao đê tiện là thuộc về chúng
mày. Thành công, được mùa là nhờ lãnh đạo sáng suốt; thất bại, mất mùa là do
thiên tai hoặc do bàn tay lông lá của CIA. Mà này, xin hỏi người anh hùng, đế
quốc Xô Viết hùng mạnh như thế, là “thành trì không gì lay chuyển nổi của phe
xã hội chủ nghĩa, trụ cột vững chắc của hòa bình thế giới”, sao chẳng ai đụng
mà tự sụp đổ tan tành như thế? Sao lại tự đào mồ chôn mình như thế?). Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng
Từ Chernobyl.
…Tôi
nhận được lệnh, “các anh phải làm sao để dân chúng không hoảng loạn”.
Thế
giới được hình thành từ những định luật vật lý, chứ không phải bằng những lý
thuyết của Marx.
Tôi chỉ
là một sản phẩm của thời đại tôi đã sống. Chứ không phải là một tên tội phạm.
Vladimir M. Ivanov, nguyên Bí thư
thứ nhất đảng ủy vùng Stavagorod.
(Ông
Bí thư có đứa cháu gái sơ sinh bị chết vì nhiễm độc phóng xạ. Ông đã phản tỉnh
nên nói trúng đôi điều. Duy có một điều tôi muốn thưa với ông: Tuy không phải
là một tên tội phạm, nhưng ông đã tận tụy cả đời mình để phục vụ cho một thể chế
tội phạm. Ông nghĩ sao?). Độc thoại bên trang sách Tiếng Vọng Từ Chernobyl.
Nghe đọc đến câu tự bạch cuối của
ông bí thư: “Tôi chỉ là một sản phẩm của thời đại tôi đã sống, chứ không phải
là một tên tội phạm” bà Nataliya nhổm dậy, mắt sáng quắc, “Đây không còn là
mánh khóe hay sự dối trá nữa. Mà là cuộc chiến tranh nhằm tiêu diệt những người
vô tội”. Bà đã lặp lại y chang câu nói của viện sĩ Vasily Nesterenko thuộc HLV
Khoa học Belarus mà tôi đã đọc cho bà nghe. Đầu óc của bà còn tỉnh táo và trí nhớ tốt cách lạ
lùng. Bà nói trong uất ức, rồi lại run lẩy bẩy, miệng đánh bò cạp và co quắp
người như lần trước. Việc đọc đành phải tạm dừng.
Mươi ngày sau tôi lại được gọi,
tuy cùng số phone, nhưng lần này là tiếng nói của cô y tá. Tôi sợ bà Nataliya
có chuyện gì nên đến ngay. Tới nơi, tôi được cô y tá đưa vào phòng khách. Trong
nhà có nhiều người, tôi nhận ra hai ông con trai thường đến thăm bà và mấy cháu
nhỏ gọi bà bằng cụ cố. Cô y tá nói, “Bà mới đi cấp cứu về. Tôi có kể cho bác sĩ
nghe về việc đọc sách. Ông ta nói, quyển sách đó có sức ám ảnh mạnh, quá sức chịu
đựng đối với một cụ bà đã quá cao niên như Nataliya, và bảo tôi khuyên anh nên
dừng lại”. Tôi chỉ biết lặng lẽ gật đầu. Cô đưa tôi vào phòng ngủ của Nataliya.
Thấy tôi bà xoay người ngồi dậy, nhưng cô y tá đỡ cho bà nằm xuống lại. Tôi hôn
nhẹ lên trán Nataliya rồi ngồi xuống chiếc ghế có lót nệm kê sẵn bên giường. Bà
đưa tay tìm tay tôi, nói giọng yếu nhưng rõ từng lời:
“Tôi
nhớ có nói với anh về Holodomor. Thuở ấy, mới lên mười, tôi đã nhìn thấy những
tấm bích chương có in dòng chữ: ‘Ăn thịt đứa con do chính mình đẻ ra là một
hành động man rợ ‘. Đây là một dòng chữ đau thương. Anh đã từng đọc nó ở đâu
chưa?”
“Dạ
có. Tôi đọc dòng chữ đau thương đó trong sách và internet. Sử gia Robert
Conquest trong Harvest of Sorrow cho rằng Stalin và Trung ương Xô Viết đã đẩy
người dân Ukraine vào bước đường cùng, dẫn đến thảm cảnh người ăn thịt người,
cha mẹ ăn thịt con; rồi lại tráo trở in bích chương giảng dạy đạo đức”…
“Nếu
vậy, chắc anh biết Kulaks là gì?”
“Dạ biết. Kulaks là những nông dân giàu có bị
quy là địa chủ bóc lột. Họ bị đưa vào trại lao động”.
”Họ bị dẫn đi và không bao
giờ quay về. Ông thân sinh ra tôi là một trong 2,5 triệu Kulaks đó của nông
thôn Ukraine ”.
Tôi xin lỗi đã gợi nỗi buồn,
nhưng bà nói không sao, rồi khép mắt như chìm vào những hồi ức xa xưa, vẫn giữ
tay tôi trong tay. Chặp sau bà mở mắt:
“Như
vậy là cuối cùng, nạn nhân của Chernobyl đã không phải chết âm thầm trong bóng
tối. Nhờ quyển sách của Svetlana Alexievich , với sức mạnh nhân văn khai thiên
phá thạch của nó, rồi ra những cái chết của những thai nhi, những em bé, những
cụ già, những người dân ở Pripyat cũng như dân chúng ở vùng biên giới
Ukraine-Belarus; cái chết của những người lính cứu hỏa, những thanh tẩy viên,
những người hùng Xô Viết, khoa học gia, xét nghiệm viên, bác sĩ, y tá, nhà báo,
viên chức hành chánh, tài xế, nhân viên bán hàng, xã viên hợp tác xã, đội viên
đội diệt chó, những con chó trong đó có con Poodle khốn khổ… những cái chết đó
đã và đang được phơi bày ra ánh sáng”…
Bà không nêu ra liền một mạch mà
cứ ngắc ngứ, nhưng hầu như không thiếu một loại nạn nhân nào của Chernobyl. Trước
khi chia tay bà nói:
“Tôi
đã sống dai, sống đủ. Giờ đây tôi yên lòng dọn mình ra đi. Tôi đi gặp cha mẹ và
những người đồng bào tội nghiệp của tôi, gặp những nạn nhân của cả Holodomor lẫn
Chernobyl. Họ đã được chết dưới ánh mặt trời.”
Hai hôm sau buổi gặp gỡ ấy, bà
Nataliya qua đời, hưởng thọ 94 tuổi. Cô Kateryna, con gái út kể:
“Mẹ
tôi tắm gội sạch sẽ, mặc chiếc áo dài Poltava truyền thống, bảo tôi chở đi
beauty salon để trang điểm, làm đẹp. Về nhà, bà uống một ly nhỏ rượu Vodka, tự
mình đi vào phòng ngủ, lên giường nằm. Bà có thói quen chợp mắt vài mươi phút
vào buổi trưa, nhưng lần này bà cho gọi con cháu vào, bảo vén màn cửa cho nắng
chiếu đến tận chỗ nằm, nheo mắt nói: “Ta đi đây!” rồi nhắm mắt đi vào cõi vĩnh
hằng…”
Vancouver, July 5, 2016
NGUYỄN ÂU HỒNG…..
(1) Holodomor - Lộc Trời, Tập truyện ngắn của Nguyễn Âu Hồng, Nxb Sóng,
California 2015
(2) Bản tiếng Việt của T-Van. Vì
trang t-van.net chưa đăng đầy đủ nên có một số đoạn Nguyễn Âu Hồng dịch từ bản
tiếng Anh của Keith Gessen.