2b
THÀNH CÁT TƯ HÃN VÀ CON CHIM ƯNG
Trong
lần viếng thăm mới đây tới Kazakhstan, ở Trung Á, tôi đã có dịp cùng đi với mấy người thợ săn đang còn sử dụng chim ưng như một vũ khí. Tôi không muốn thảo luận gì về từ "đi săn", trừ khi để nói rằng, trong trường hợp này, Thiên nhiên chỉ đi
theo trình tự
của nó.
Tôi
không có người phiên dịch cùng đi, nhưng điều có thể là bất tiện lại biến thành may mắn. Do không thể nói chuyện với họ,
tôi để ý nhiều
hơn tới việc họ làm. Nhóm nhỏ của chúng tôi dừng lại, người ôm con chim ưng trong tay tách ra khỏi chúng tôi và gỡ chiếc mũ nhỏ bằng bạc trên đầu con chim. Tôi không biết tại sao ông ta quyết định dừng lại ở chỗ đó, và không có cách gì để hỏi.
Con
chim bay đi, lượn quanh vài vòng rồi đâm đầu thẳng xuống dưới vực và ở luôn dưới đó. Khi chúng tôi đến gần thì thấy một con chồn bị kẹp nơi vuốt con chim. Cảnh đó lặp
lại hơn một lần trong buổi sáng.
Trở
về làng, tôi gặp những người đang chờ tôi, tôi hỏi họ bằng
cách nào họ có thể huấn luyện chim ưng làm mọi thứ như tôi nhìn thấy,
kể cả việc ngoan ngoãn đứng
trên cánh tay chủ ( và tay
tôi nữa, họ để một dải băng tay bằng da
trên tay tôi và tôi cảm
thấy móng vuốt nhọn của con chim rất gần.)
Đó là một câu hỏi lạc lõng.
Không ai giải
thích được. Họ nói là nghệ
thuật đó được truyền từ đời này sang đời khác, cha huấn luyện con trai, và cứ
thế. Nhưng điều còn mãi khắc sâu trong tâm trí tôi là những
ngọn núi phủ tuyết phía sau, bóng dáng những con ngựa và những kỵ mã, con chim ưng
bay lên từ tay một người trên lưng ngựa, và cú đâm bổ xuống chí tử của nó.
Điều
còn lưu lại nữa là câu chuyện mà một người trong nhóm đó kể tôi nghe khi dùng bữa trưa.
Một
buổi sáng, người chiến
sĩ Mông Cổ Thành Cát
Tư Hãn và các thuộc hạ cùng đi săn. Những người cùng đi mang theo cung tên, nhưng
Thành Cát Tư Hãn mang theo trên cánh tay con chim ưng mà ông ưa thích, chim còn giỏi và chắc hơn bất cứ mũi tên
nào, bởi vì nó có thể
bay lên trời cao và nhìn được những
gì con người
không thể thấy.
Tuy nhiên, mặc
cho mọi người cố gắng nhiệt tình, họ vẫn
không tìm thấy
được gì. Thất vọng, Thành Cát
Tư Hãn quay lại chỗ
cắm trại và để khỏi làm
tâm trạng thất vọng lan đến những người
khác, ông tách ra khỏi nhóm và cỡi ngựa đi một mình. Họ ở
lại trong rừng lâu hơn mong đợi và Thành Cát
Tư Hãn rất mệt và khát. Dưới ánh nắng hè, các con suối đều cạn khô hết, ông chẳng
có gì để uống. Thế rồi, ông bỗng ngạc nhiên nhìn thấy
một mạch nước nhỏ chảy
từ tảng đá trước mặt.
Ông
gỡ con chim ưng
khỏi tay và lấy ra chiếc cốc bạc vẫn thường mang theo bên mình. Phải rất lâu mới hứng
nước đầy cốc và khi ông sắp đưa lên môi thì con chim vụt bay lên, giật cái cốc khỏi tay ông và ném
xuống đất.
Thành Cát
Tư Hãn tức giận, nhưng chim ưng là thú cưng của ông, và có lẽ chính nó cũng khát nước. Ông nhặt cái cốc lên,
lau sạch bụi và hứng
nước lại. Lần này cốc nước mới đầy được một nửa thì chim ưng lại đâm đến, làm đổ nước.
Thành Cát
Tư Hãn quý con chim này,
nhưng ông biết rằng ông không thể, dù bất cứ hoàn
cảnh nào, chấp nhận một sự bất kính như thế, ai đó có thể nhìn thấy
cảnh này từ xa và sau
này, có thể kể lại cho các chiến sĩ của ông rằng người chinh phục vĩ đại không thể nào thuần dưỡng được chỉ một con chim.
Lần
này, ông rút gươm ra, nhặt lấy cái cốc và hứng
nước, một mắt nhìn vào dòng suối, mắt kia canh
chừng chim ưng. Ngay khi thấy nước vừa đủ,
ông chuẩn bị uống thì con chim ưng
lại bay gần tới ông. Ông đâm ngay một nhát vào ngực con chim.
Tuy nhiên, mạch
nước đã cạn, và Thành Cát Tư Hãn vẫn quyết tìm nước uống
nên leo lên tảng
đá đi tìm con suối.
Thật đáng kinh ngạc, quả thực là có một vũng nước và ngay ở giữa, một con rắn thuộc loài độc nhất vùng này
nằm chết ở đó. Nếu ông lỡ uống
nước này thì hẳn ông cũng đã mất mạng.
Thành Cát
Tư Hãn trở về trại, tay ôm con chim đã chết.
Ông cho đúc một bức tượng nhỏ con
chim bằng vàng,
và trên một cánh chim, ông khắc dòng chữ:
"Ngay
cả khi bạn
làm điều
gì mà ta không thích,
thì đó vẫn
là bạn
của ta".
Và trên cánh bên
kia, ông khắc dòng
chữ:
"Bất cứ hành động
nào thực
hiện khi giận
dữ đều là hành động
đưa đến thất bại."
NGƯỜI THIÊN CHÚA GIÁO VÀ NGƯỜI HỒI GIÁO
Tôi
nói chuyện với một tu sĩ Thiên chúa giáo
và một thanh niên Hồi giáo khi đang ăn trưa. Lúc người phục vụ mang khay đến, tất cả chúng tôi đều tự lấy thức ăn, ngoại trừ anh chàng Hồi giáo, anh vẫn giữ chế độ ăn kiêng
hàng năm theo kinh Coran.
Khi
xong bữa, mọi người sắp rời đi, một trong những thực khách không nhịn được lên tiếng: " Các vị có thấy mấy người Hồi giáo quá khích mức nào không? Tôi hài lòng khi thấy người Thiên chúa giáo quý vị không giống họ."
" Chúng tôi cũng vậy
thôi, " vị tu
sĩ nói. "Ông
ta muốn phụng sự Thượng đế cũng như
tôi vậy thôi. Chúng tôi có những
giáo điều khác nhau."
Và ông kết luận: " Thật đáng trách nếu mọi
người chỉ thấy sự khác biệt
ngăn cách nhau. Nếu bạn
xem xét sự việc với tình
thương yêu nhiều hơn, bạn sẽ thấy chủ yếu những điểm chung, và do vậy
những vấn đề rắc rối trên thế giới đã giải quyết được một nửa."
MANUEL LÀ MỘT NGƯỜI TỰ DO
Manuel làm việc
ba mươi năm không ngưng nghỉ. Ông nuôi dạy con cái, nêu gương tốt và dành hết thời gian cho công việc, không bao giờ tự hỏi: " Những gì mình làm có ý nghĩa gì không nhỉ?"Ông
chỉ nghĩ đến một điều là ông càng bận rộn thì ông càng
tỏ ra quan trọng
hơn dưới mắt nhân gian.
Con cái ông trưởng thành và rời gia
đình. Ở chỗ làm, ông được thăng chức, một ngày kia ông được thưởng một cái đồng hồ hay một cây bút cho bao nhiêu
năm tháng cống hiến, bạn bè rơi
nước mắt và giây
phút chờ đợi bấy lâu đã đến:
ông được nghỉ hưu, được tự do muốn làm gì thì làm!
Những
tháng đầu tiên,
thỉnh thoảng ông ghé lại
sở làm, trò chuyện với đồng nghiệp cũ và buông theo niềm vui làm được việc ông luôn mơ ước là ngủ dậy trễ. Ông đi dạo dọc bờ biển hay xuống phố, ông có ngôi nhà của
miền quê, tậu được bằng mồ hôi của mình, ông khám phá thú làm vườn và dần dần hiểu thấu đáo bí mật của cỏ cây, hoa lá. Manuel có thời gian, tất cả
thời gian trên đời này.
Ông đi du lịch, sử dụng một ít
trong khoản tiền lâu nay dành dụm được.
Ông đến thăm các
viện bảo tàng,
và trong hai tiếng đồng
hồ, học hỏi được những
gì mà các hoạ sĩ, các điêu khắc gia nhiều vùng
miền khác nhau phải mất
hàng thế kỷ để phát triển, nhưng cuối cùng ông cũng có cảm giác là đã mở mang được kiến thức văn hoá. Ông chụp hàng
trăm, hàng
ngàn bức ảnh và gởi
cho bạn bè - dù sao, họ cũng cần phải biết ông hạnh phúc thế
nào chứ!
Nhiều
tháng nữa qua đi. Manuel biết rằng vườn tược không tuân theo những quy luật y hệt như loài người - những thứ ông trồng cần thời gian để phát triển và chẳng ích lợi gì nếu cứ kiểm tra thường xuyên xem thử đã có nụ nào trên
bụi hoa hồng chưa. Trong một thoáng phản tỉnh khôn ngoan, ông khám phá ra rằng những gì ông nhìn thấy trong các chuyến du hành là phong cảnh bên
ngoài chiếc xe buýt du lịch và những
công trình kiến trúc giờ đây được lưu giữ trong những tấm ảnh 6x9, nhưng sự thật là ông không còn hào
hứng thực sự - ông chỉ quan tâm tới
việc thuật lại cho bạn bè hơn
là trải nghiệm sự thần kỳ lúc đi nước ngoài.
Ông
tiếp tục xem tin tức trên TV và đọc nhiều báo hơn ( vì ông có nhiều
thời gian hơn ), và thấy
mình là người
rất thạo tin, có thể nói những chuyện mà trước đây ông không có thời gian để học hỏi.
Ông
muốn có ai cùng chia sẻ quan điểm của mình, nhưng mọi người đều chìm trong dòng sông cuộc sống, lao động, làm việc gì đó, ganh
tị
với Manuel bởi ông được tự do, nhưng cùng lúc lại cảm thấy hài lòng vì tỏ ra hữu ích cho xã hội và được " bận rộn " với điều gì đó quan
trọng.
Manuel tìm
nguồn an ủi nơi con cái. Chúng luôn luôn dành cho ông
tình yêu thương vô
bờ - ông lúc nào cũng là người cha tuyệt vời, tấm gương liêm khiết và tận tâm - nhưng chúng cũng có những
mối quan tâm
khác nữa, tuy vẫn tự
cho có bổn
phận đến ăn trưa với ông mỗi chủ nhật.
Manuel là một
người tự do, phong lưu, nắm nhiều
thông tin, với một quá khứ
không tì vết, nhưng bây giờ thì sao? Ông sẽ làm gì với
thứ tự do vất vả
mới đạt được kia? Ai cũng chào đón, khen ngợi ông, nhưng không ai dành
thời gian cho ông.
Dần dần Manuel cảm
thấy buồn rầu và vô dụng, dù ông đã mất bao nhiêu năm phục vụ nhân gian
và gia đình ông.
Một
tối kia, một thiên thần
hiện đến bên ông khi ông đang ngủ:"Ông đã làm gì đời ông? Ông đã cố sống phù hợp với
mơ ước của mình không?"
Một
ngày dài nữa bắt đầu. Báo chí. Tin tức truyền hình. Vườn
tược. Ăn trưa. Ngủ trưa một lát. Ông muốn làm gì cũng
được, trừ một điều, giờ này
đây, ông khám phá ra rằng ông không còn
muốn làm gì cả. Manuel là một
người buồn rầu, tự do, chỉ một
bước là đến tình trạng trầm cảm, bởi vì ông luôn bận rộn suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc đời mình và đành để năm tháng trôi đi dưới cầu. Ông nhớ lại lời một nhà thơ: " Anh trôi qua đời mình/ anh đã không
sống nó."
Tuy nhiên, vì quá trễ
để chấp nhận điều này, tốt nhất
là nên thay đổi đề tài. Sự tự do gay go mới giành được của ông chỉ là sự lưu đày trá hình.
MANUEL LÀ MỘT NGƯỜI QUAN TRỌNG VÀ CẦN THIẾT
Manuel
cần phải bận rộn. Nếu không như vậy, ông nghĩ là cuộc đời vô nghĩa, ông đang
lãng phí thời gian, xã hội không cần đến ông nữa, không còn ai thương yêu ông,
cần đến ông nữa.
Vì
thế, ngay khi thức dậy, ông có một loạt công việc để làm: xem tin tức trên truyền
hình ( hẳn là có chuyện gì đó đã xảy ra trong đêm ), đọc báo ( chuyện gì đó có lẽ đã xảy ra trong ngày hôm
qua ), nhắc nhở vợ đừng để các con trễ học, lái xe, hoặc đón tắc xi hay xe buýt
hay tàu điện ngầm để đi làm, lúc nào cũng suy nghĩ lung lắm, nhìn mải miết vào
không trung, xem đồng hồ hoặc, nếu có thể, lấy điện thoại cầm tay gọi cho ai
đó, và bảo đảm rằng ai cũng có thể thấy ông là một người quan trọng và cần thiết
cho thế giới này như thế nào.
Manuel
đến sở làm, ngồi vào bàn giải quyết các giấy tờ đang chờ đợi ông. Nếu ông là một
nhân viên, ông cố làm sao để ông chủ thấy ông đã đến đúng giờ. Nếu ông là chủ,
ông bảo mọi người bắt tay vào việc ngay; nếu không có việc gì quan trọng để
làm, Manuel sẽ bày ra chuyện, nghĩ ra việc, đề ra những kế hoạch, phác ra những
phương hướng hoạt động mới.
Manuel
đi ăn trưa, nhưng không bao giờ ăn một mình. Nếu ông là chủ, ông sẽ ngồi với bạn
và bàn bạc những chiến lược mới, nói về những nhược điểm của các đối thủ, lúc
nào cũng dự kiến cách đối phó, than vãn ( với đôi chút tự hào ) về công việc
quá bận bịu. Nếu Manuel là nhân viên, ông cũng ngồi ăn với bạn, than phiền về
ông chủ, than phiền về khối lượng công việc phải làm ngoài giờ, chỉ rõ với đôi
chút lo lắng ( và đôi chút tự hào ) rằng nhiều việc trong công ty hoàn toàn dựa
vào ông.
Manuel
- ông chủ hay nhân viên - làm việc suốt buổi chiều. Thỉnh thoảng, ông nhìn đồng
hồ, đã gần tới giờ về nhà nhưng ông vẫn còn phải giải quyết một chi tiết nơi
này, ký một tài liệu nơi kia. Ông là người trung thực, ông muốn tỏ ra xứng đáng
với đồng lương của mình, mà bao người mong ước, xứng đáng với kỳ vọng của cha mẹ,
những người đã khổ cực để nuôi dạy ông tử tế.
Cuối cùng, ông đi về nhà. Ông tắm rửa, thay bộ
quần áo thoải mái rồi ăn tối cùng gia đình. Ông hỏi han về bài vở của các con,
về công việc của vợ. Thỉnh thoảng, ông nhắc đến công việc của mình, dù chỉ nêu
lên làm ví dụ, vì ông cố gắng không đem việc của sở về nhà. Cả nhà ăn xong, các
con ông, không có thì giờ để nghe những ví dụ, để làm bài tập ở nhà hoặc những
thứ tương tự, rời khỏi bàn ăn ngay để đến ngồi trước máy vi tính. Manuel, đến
lượt mình, đến ngồi trước cái máy từ hồi thơ ấu gọi là vô tuyến truyền hình.
Ông lại tiếp tục xem tin tức ( hẳn đã có chuyện gì xảy ra vào buổi chiều).
Khi
nào ông cũng đi ngủ với một quyển sách chuyên môn nào đó trên bàn nhỏ đầu giường
- dù là ông chủ hay nhân viên, ông biết rằng cuộc cạnh tranh rất khốc liệt, ai
không cập nhật kiến thức kịp sẽ dễ bị mất việc, sẽ phải đương đầu với tai hoạ tệ
hại nhất: không có gì để làm cả.
Ông
nói chuyện với vợ một chút, xét cho cùng, ông là người dễ mến, cần cù, đầy tình
thương, biết chăm sóc gia đình và sẵn sàng bảo vệ vợ con dù bất cứ hoàn cảnh
nào. Ông thấy buồn ngủ ngay, và ngủ thiếp liền, biết rằng ngày mai ông sẽ bận rộn,
và ông cần tái tạo năng lượng.
Tối
hôm đó, Manuel có một giấc mơ. Một thiên thần hỏi ông: “ Tại sao ông làm như vậy?”
Ông đáp là bởi vì ông là người có trách nhiệm.
Thiên
thần tiếp tục hỏi:” Liệu ông có thể bỏ ra mười lăm phút trong ngày để ngừng lại,
ngắm nhìn thế giới và bản thân mà không làm gì cả?” Manuel trả lời là ông muốn
làm như vậy lắm, nhưng ông không có thời gian. “ Ông đang nói dối tôi, “ thiên
thần nói, “ Ai cũng có thời gian làm điều đó, có điều là họ không đủ can đảm.
Làm việc là một điều may mắn khi nó giúp cho chúng ta suy nghĩ về điều ta đang
làm, nhưng nó sẽ trở thành một tai hoạ khi tác dụng duy nhất của nó chỉ là ngăn
chặn chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống.”
Manuel
thức giấc ngay giữa đêm, mồ hôi toát ra lạnh ngắt. Can đảm ư? Lẽ nào một người
hy sinh tất cả cho gia đình lại không đủ can đảm để ngừng nghỉ mười lăm phút mỗi
ngày?
Tốt
nhất là hãy ngủ lại. Đó chỉ là một giấc mơ, những câu hỏi đó sẽ không đưa ông đến
đâu cả, và ngày mai, ông sẽ rất, rất bận rộn.
MANUEL
LÊN THIÊN ĐƯỜNG
Có một
dạo, Manuel hưởng được sự tự do của tuổi hưu trí, không phải thức dậy vào một
giờ nhất định, và có thể sử dụng thời gian để làm điều gì ông muốn. Tuy nhiên,
chẳng bao lâu ông rơi vào trạng thái trầm cảm: ông thấy mình vô dụng, bị loại
ra khỏi cái xã hội mà ông đã góp phần xây dựng, bị những đứa con đã trưởng
thành bỏ rơi, không thể nào hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, không hề bận tâm
trả lời câu hỏi xưa cũ: “ Ta đang làm gì đây?”
Vâng,
ông Manuel thân thiết, lương thiện, tận tuỵ của chúng ta rốt cuộc đã chết đi -
điều sẽ xảy đến cho tất cả những Manuel, Paulo, Maria và Monica cuả thế giới
này. Và ở đây, tôi sẽ để Henry Drummund trong tác phẩm xuất sắc của ông The
Greatest Thing in theWorldmô tả điều gì xảy ra sau đó:
“ Từ
thuở xa xưa, con người đã từng đặt ra câu hỏi quan trọng: Điều gì là tối thiện?
Bạn có cuộc sống trước mặt bạn. Bạn chỉ có thể sống một lần. Điều gì là mơ ước
cao quý nhất, món quà nào cao cả nhất để khát khao?
Chúng
ta đã quen nghe nói rằng điều lớn lao nhất trong thế giới tôn giáo là đức tin.
Từ ngữ quan trọng đó đã là then chốt qua nhiều thế kỷ của tôn giáo phổ cập, và
chúng ta dễ dàng được dạy bảo để xem nó là điều quan trọng nhất trên thế giới.
Nhưng không, chúng ta đã lầm. Nếu chúng ta đã được nghe bảo thế, chúng ta có thể
lạc lối rồi. Trong chương thứ 13 của ( sách ) I Cô - rinh - tô, ( sứ đồ ) Phao
- lô đã đưa chúng ta đến ngọn nguồn Cơ đốc giáo, và ở đó chúng ta thấy “ Cái lớn
lao nhất là tình thương yêu.”
“ Đấy
chẳng phải là một sự sơ suất. Phao - lô đã nói về đức tin trước đó. Ông nói, “Nếu
tôi có đức tin, tôi có thể dời những ngọn núi, nhưng nếu không có tình thương
yêu, tôi không là gì cả”. Không hề lãng quên, ông cân nhắc so sánh chúng, “ Bây giờ còn lại đức tin, hy vọng ,
tình thương, “ rồi không một chút ngập ngừng, câu quyết định buông xuống, “ Cái
lớn lao nhất là tình thương.”
Trong
trường hợp này, ông Manuel của chúng ta đã được cứu rỗi ngay lúc chết, bởi vì,
mặc dù không hề mang lại ý nghĩa gì cho
cuộc sống của mình, ông có khả năng yêu thương, bảo bọc gia
đình và thực hiện công việc một cách xứng đáng. Trong lúc đó, tuy cuộc sống của
ông kết thúc tốt đẹp, những ngày cuối cùng của ông trên Trái đất lại rất phiền
toái.
Tôi
muốn mượn một câu mà tôi đã nghe
Shimon Peres nói tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos: “ Người lạc quan và người
bi quan, rốt cuộc cả hai đều chết, nhưng mỗi người sống cuộc sống của mình hoàn
toàn khác nhau.”
SẴN
SÀNG CHIẾN
ĐẤU, NHƯNG VỚI ĐÔI CHÚT NGHI NGẠI
Tôi
mặc bộ quần
áo kỳ lạ màu xanh lá cây, đầy cả dây kéo và làm bằng
loại vải thật dai. Tôi cũng mang
cả
găng tay, để tránh bị cứa
đứt hay trầy
xước. Tôi đem theo một loại giáo,
dài gần bằng tầm vóc tôi. Đầu
mút vật kim loại đó một bên có ba răng chỉa và bên
kia có một
mũi nhọn.
Và trước mặt tôi là đối tượng tôi sắp tấn công:
mảnh vườn.
Công
cụ cầm trong tay, tôi bắt đầu bới những
cây dại mọc chen đám cỏ. Tôi làm việc này một lúc khá lâu, biết rằng mỗi cây tôi đào lên sẽ
chết trong vòng hai ngày.
Bất chợt, tôi tự hỏi: " Phải chăng mình đang
làm việc đúng đắn?"
Thứ
mà ta gọi là "
cây
cỏ dại " thực ra là một
toan tính để sinh tồn của một chủng loại đặc biệt mà Thiên nhiên phải mất hàng triệu năm để tạo ra và phát triển. Hoa được
thụ phấn nhờ vô số côn trùng , rồi chuyển hoá thành hạt
giống, gió lại tung hạt ra khắp cánh đồng - vì nó đâu chỉ
được trồng có một chỗ, mà rất nhiều - cơ may để nó sống sót đến mùa xuân sắp tới là lớn hơn nhiều. Nếu nó được gom lại một chỗ thì rất dễ bị ăn lấn, bị ngập lụt, đốt cháy hay bị hạn hán.
Nhưng
nỗ lực sống còn đó
bị cắt đứt bởi ngọn giáo tàn nhẫn bứt cái cây lên khỏi mặt đất.
Tại
sao tôi lại làm việc
này?
Có người đã tạo ra mảnh vườn này, tôi cũng
chẳng biết là ai,
vì khi tôi
mua ngôi nhà, thì vườn
đã có đó rồi, hài hoà với cảnh đồi
núi và cây cối xung quanh. Nhưng người đã tạo lập mảnh vườn hẳn đã suy
nghĩ
lung lắm về việc mình làm, đã cẩn
thận trồng và tính toán chu đáo ( chẳng hạn dành một hàng cây che khuất cái chòi chứa củi ) và trông
nom chúng qua đông rồi lại xuân. Khi tôi chuyển đến căn nhà cũ kỹ
này, nơi tôi ở mỗi năm vài tháng,
cái sân cỏ thật tuyệt vời. Giờ đây tiếp tục công việc đó không là tuỳ ở tôi, dù câu hỏi triết lý vẫn còn đó: nên chăng tôi tôn trọng công việc của người tạo ra, người chủ vườn, hay là tôi
nên chấp nhận
bản năng sinh tồn mà thiên nhiên
ban cho cây này, loại cây mà
giờ tôi gọi là " cây dại ".
Tôi
tiếp tục bới lên những cây không thích rồi chất thành đống
để lát nữa đem đốt. Có lẽ
tôi đã suy nghĩ quá nhiều về
những chuyện lẽ ra không cần phải suy nghĩ mà chỉ cần hành động.
Thế nhưng, mỗi động tác do con người thực hiện đều thiêng liêng và đầy hệ quả, và điều đó khiến tôi suy nghĩ nhiều hơn về việc mình làm.
Nhưng
- dù có hay không sự hỗ trợ của Kinh Thánh - tôi đang đương đầu với một vấn đề cụ thể mà con người
vẫn phải đương đầu: Chúng ta nên
can sự vào
Thiên nhiên đến
mức nào? Sự can dự đó lúc nào cũng
tiêu cực, hay có thể đôi lúc tỏ ra tích cực?
Tôi
để qua một bên vũ khí của tôi - cũng được gọi là dụng cụ nhổ cỏ dại -. Mỗi một lần bứng gốc có nghĩa là kết liễu một sự sống, là cái chết của một bông hoa có thể nở vào mùa
xuân - đó là sự kiêu
căng của con người cứ muốn tạo hình cho quang cảnh chung quanh mình. Tôi cần suy nghĩ thêm
về vấn đề này, bởi
vì, ngay lúc này đây, tôi đang sử dụng quyền lực sinh tử trong tay. Đám cỏ hình như muốn nói với tôi: " Nếu ông không bảo vệ tôi, cây dại sẽ huỷ diệt tôi." Cây dại cũng nói với tôi:" Tôi đã đi rất xa mới tôi được vườn của ông. Sao ông lại muốn
giết tôi?"
Cuối cùng, văn bản của Ấn độ giáo " - cuốn
Chí Tôn Ca ( Bhagavad-Gita
) hiện ra giúp tôi. Tôi nhớ lại câu Thần Krishna trả lời cho chiến binh Arjuna lúc người này nản lòng
trước một trận chiến quyết liệt, buông vũ khí, và nói là thật
không đúng nếu tham gia vào một cuộc chiến sẽ kết thúc bằng cái chết của
người anh em. Khrisna bèn nói, đại khái là: "'Ngươi có thực
sự nghĩ là mình có thể giết bất cứ ai? Bàn tay ngươi là Bàn
tay của ta, và mọi
chuyện đã được sắp đặt là mọi
việc ngươi đang làm hẳn
sẽ được thực hiện. Không ai giết và không ai chết cả."
Được
hồi ức này cổ
vũ, tôi nhặt cái giáo lên lại,
tấn công đám cây dại
tôi không mời đến mọc trong vườn,
và sáng hôm nay tôi có được một bài học: khi có điều gì không như ý hiện ra trông tâm hồn, tôi cầu xin Thượng Đế ban cho tôi can đảm để dứt bỏ nó đi
không thương tiếc.
NGƯỜI CHIẾN SĨ TRONG RỪNG
Khi đang leo lên một lối mòn nơi dãy
núi Pyrenees để tìm chỗ tập
luyện bắn cung, tôi đụng phải nơi đóng quân của binh sĩ Pháp. Các binh sĩ chăm chú nhìn tôi, nhưng tôi làm bộ như
không thấy gì ( ôi, ai
trong chúng
ta cũng ít nhiều mắc
bệnh hoang tưởng là bị nhận lầm là gián điệp...) và cứ tiếp tục đi.
Tôi
tìm được địa điểm lý tưởng, hít thở khởi động và nhận thấy có một chiếc xe bọc sắt đang đi tới.
Tôi
lập tức chuẩn bị phòng
thủ và trang bị các câu trả
lời cho bất kỳ câu hỏi nào có thể
được đặt ra: tôi có giấy phép sử dụng cây cung, địa điểm này rất an toàn, nếu
có ngăn
cấm gì là việc của kiểm lâm, không phải việc của quân đội, v.v. Tuy nhiên, một viên đại tá nhảy xuống xe và hỏi có phải tôi là nhà văn không rồi cho tôi biết vài thông tin thú vị về vùng này.
Rồi, cố chế ngự sự bối rối hầu như thấy rõ, ông nói tiếp rằng chính ông cũng có viết sách, và giải thích chuyện bất thường đó xảy ra thế nào.
Vợ
chồng ông từng bảo bọc một đứa bé bị bệnh cùi, cháu bé trước sống ở Ấn Độ, sau được chuyển sang Pháp. Một hôm, do tò mò muốn gặp cháu,
hai vợ chồng đi đến tu viện nơi cháu
đang được các nữ tu chăm
sóc. Họ có được buổi chiều dễ
chịu, và cuối cùng, một trong những tu sĩ hỏi họ có thể giúp đỡ việc giáo dục tinh
thần
cho nhóm trẻ sống ở đó không. Jean-Paul
Sétau ( tên vị đại tá ) giải thích là ông không có chút kinh nghiệm gì về việc giảng dạy giáo lý, nhưng
ông sẽ suy nghĩ về
chuyện này và cầu xin Chúa chỉ cho biết sẽ làm gì.
Đêm hôm đó, sau khi cầu nguyện, ông nghe được lời phúc đáp: " Thay vì chỉ đơn giản cho câu trả lời, hãy cố tìm ra những
câu hỏi mà trẻ con muốn đặt ra."
Sau đó, Sétau có ý tưởng là đi thăm nhiều trường học và yêu cầu
học sinh viết
ra bất cứ điều gì các em muốn
biết về cuộc sống. Ông yêu cầu
viết ra câu hỏi để những em
nhút nhát nhất cũng không ngần ngại. Kết quả được sưu tập lại trong tác phẩm "Đứa bé luôn đặt câu
hỏi ", ( Nhà xuất bản Altess, Paris ).
Sau đây là một vài câu hỏi:
Chúng
ta sẽ đi đâu sau khi chết?
Tại
sao chúng ta sợ người ngoại quốc?
Người
sao Hoả và người
ngoài hành tinh
có thật hay không?
Tại
sao tai nạn vẫn xẩy ra
với những
người tin Chúa?
Thượng
Đế nghĩa là gì?
Chúng
ta sinh ra làm gì nếu rồi ai cũng phải chết?
Ai
phát minh ra chiến tranh và hạnh
phúc?
Thượng
Đế có lắng
nghe những người không tin ở Chúa không?
Tại
sao có người
nghèo và người bệnh?
Tại
sao Thượng Đế tạo ra ruồi muỗi?
Tại
sao thần linh không
ở bên chúng ta khi chúng ta buồn?
Tại
sao chúng ta thích người này và ghét người khác?
Ai đặt
tên các
màu sắc
khác nhau?
Nếu
Thượng Đế ở trên trời
và mẹ em cũng thế vì mẹ đã chết, vậy Thượng
Đế sống thế nào?
Tôi
hy vọng là các
thầy giáo, nếu đọc được những dòng này, sẽ mạnh dạn làm điều tương tự. Thay vì cố
áp đặt sao cho trẻ phải hiểu được vũ trụ, ta có thể nhắc lại những câu hỏi trẻ con chưa được trả lời của chính chúng ta.
AI
MUỐN TỜ BẠC HAI MƯƠI ĐÔ LA NÀY?
Cassan Said Amer kể chuyện một diễn giả bắt đầu
khai mạc cuộc hội thảo bằng cách giơ
cao tờ bạc hai mươi đô la và hỏi:
"
Ai muốn tờ bạc hai mươi đô la này?"
Nhiều
bàn tay đưa lên, nhưng diễn giả nói:
" Trước khi đưa
cho quý
vị, tôi làm cái này
đã."
Ông
vo tròn tờ bạc lại và nói:
"
Ai vẫn muốn có nó? "
Những
bàn tay vẫn đưa lên.
" Và thế
nào nếu tôi làm như vầy?"
Ông
ném tờ giấy bạc nhàu nát vào
tường, vứt nó xuống
đất, dày vò nó, giẫm đạp lên nó, rồi lại đưa tờ giấy bạc bây giờ đã nhăn nheo, bẩn thỉu ra. Ông lặp lại câu hỏi, và những
bàn tay vẫn giơ lên.
"Đừng bao giờ quên cảnh hôm nay, "ông nói, " Dù cho quý vị có làm
gì tờ bạc này, nó vẫn là tờ hai mươi đô la. Biết bao nhiêu lần trong cuộc đời, chúng ta bị tấn công, khinh miệt, hành hạ, sỉ
nhục, tuy nhiên, bất chấp những
chuyện đó, giá trị chúng ta vẫn như nhau."
ĐÁM TANG CỦA TÔI
Nhà báo của tờ
The Mail on Sunday xuất
hiện tại khách sạncủa tôi ở Luân Đôn và hỏi
một câu đơn giản: " Nếu hôm nay ông phải chết, ông thích loại đám tang như thế nào?"
Sự
thật thì ý tưởng về cái chết đã có trong tôi mỗi ngày
từ 1986, khi tôi
trên đường hành hương
đến Santiago. Trước
thời gian đó,
tôi luôn luôn hoảng sợ với ý nghĩ là, một
ngày kia, mọi việc sẽ kết thúc, nhưng vào một
trong những chặng đường của cuộc hành hương đó, tôi thực hành một bài tập bao gồm việc thử nghiệm sẽ có cảm giác ra sao như khi bị chôn sống. Đấy là một trải nghiệm hết sức căng thẳng, đến mức tôi mất hết sự sợ hãi, và sau
đó xem cái chết như
người bạn đồng hành mỗi ngày, luôn ở bên cạnh tôi và nói mãi: " Tôi sẽ
chạm vào bạn, nhưng bạn không biết khi nào, do vậy, hãy sống trọn vẹn hết mình".
Vì điều đó, không bao giờ tôi gác lại ngày
mai những gì tôi có thể
trải nghiệm hôm nay- bao gồm cả những niềm vui, nhiệm vụ trong công tác, nói lời xin lỗi nếu tôi thấy là đã xúc phạm người khác, và chiêm
ngưỡng giây phút hiện tại như thể
đó là giây phút cuối cùng của tôi. Tôi có thể nhớ lại nhiều dịp tôi đã ngửi
thấy mùi hương của cái chết: cái ngày xa lắc vào năm 1974, ở Aterro do Flamengo ( Rio de Janeiro ), khi chiếc xe tắc xi chở tôi bị một xe khác chặn lại, một toán người bán võ trang nhảy ra và trùm một cái bao vải lên đầu tôi. Mặc dù họ bảo đảm với tôi rằng sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra, tôi vẫn tin rằng tôi sắp trở thành một
người " mất
tích " nữa của chế độ quân phiệt này.
Hoặc là chuyện xảy ra vào tháng tám năm 1989, tôi bị lạc đường khi đang leo núi Pyrenees. Tôi nhìn
quanh chỗ
rặng núi chỉ có tuyết và cây cối, nghĩ là mình sẽ không còn đủ sức quay về và kết luận là thân xác tôi không thể được tìm thấy cho đến mùa hè sắp
tới. Cuối cùng,
sau nhiều tiếng đồng hồ đi quanh
quẩn,
tôi tìm được con đường mòn dẫn tới một ngôi làng hẻo lánh.
Nhà báo của tờ
The Mail on Sunday cứ
khẩn khoản, nhưng
đám tang của tôi sẽ như thế
nào? Ờ, thì cứ
như tôi mong muốn, chẳng có đám tang nào cả.
Tôi đã quyết định sẽ hoả thiêu, và vợ
tôi sẽ rải tro tại một
địa điểm gọi là El Cebrero ở
Tây Ban Nha- nơi tôi tìm thấy
cây kiếm. Tất cả bản
thảo và bài viết chưa in vẫn không được xuất bản ( tôi khiếp sợ số lượng những " tác phẩm di cảo
" hay " những rương đầy giấy tờ " mà những người thừa kế các nhà văn
đã đem ra in một cách vô lương tâm với mục đích kiếm tiền, nếu
các tác giả này
khi còn sống không muốn công bố những thứ này thì phải
tôn trọng sự riêng
tư đó của họ ). Cây kiếm mà tôi đã tìm thấy
trên đường hành hương
sẽ được ném xuống biển, và như thế là trở
lại nơi xuất phát của
nó. Còn tiền bạc của tôi, cùng với số
nhuận bút sẽ tiếp tục được nhận trong bảy mươi năm nữa, sẽ được tặng
tất cả cho quỹ từ thiện tôi đã thiết lập.
" Còn
câu văn khắc trên bia mộ thì sao?" Nhà báo hỏi, À, khi mà tôi đã được hoả thiêu thì làm gì có bia để
viết chữ vào, tro hoả
táng của tôi sẽ được gió mang đi xa. Nhưng mà, nếu vẫn phải chọn một câu, tôi sẽ chọn thế này: "Ông
ta đã chết trong khi vẫn còn sống." Có vẻ như câu chữ
có vẻ
mâu thuẫn, nhưng
tôi biết có nhiều
người đã ngừng sống, tuy vẫn còn làm
việc, ăn uống, vẫn thực hiện những
hoạt động xã hội
quen thuộc. Họ làm mọi
thứ theo quán
tính, không hay biết gì cái khoảnh khắc mầu nhiệm mà mỗi ngày
mang theo cùng với nó, không bao giờ ngừng nghĩ về sự kỳ diệu của cuộc sống,
không hiểu rằng cái giây
phút tiếp theo đây có thể sẽ là giây phút cuối cùng của họ trên bề mặt hành tinh này.
Nhà báo ra về, tôi ngồi xuống máy vi tính và quyết định viết bài này.
Tôi biết đây là một
đề tài không ai thích nghĩ đến, nhưng tôi có một
bổn phận với độc giả của tôi - là phải làm
sao cho họ nghĩ đến những
điều quan trọng
trong cuộc sống. Và cái chết có thể
là điều quan trọng nhất. Tất cả chúng ta đều đang tiến dần đến cái chết, nhưng ta không bao
giờ
biết lúc nào cái chết sẽ
chạm vào ta. Bởi thế, bổn phận của chúng ta là phải nhìn quanh mình,
phải biết ơn từng giờ phút, nhưng
chúng ta cũng phải biết ơn cái chết bởi
nó khiến ta suy nghĩ về tầm quan trọng của mỗi quyết định ta thực hiện hay không thực hiện được, để thôi
không làm những gì sa vào
hàng những người " sống như chết rồi " , và, thay vào đó, chịu
rủi ro mọi thứ, chịu
đánh cược mọi thứ về những điều ta luôn mơ được làm, bởi lẽ, dù ta có thích hay không, thiên thần của sự chết vẫn đang chờ đợi chúng ta.
LA MÃ:
ISABELLA TỪ NEPAL TRỞ VỀ
Tôi
gặp Isabella trong một tiệm
ăn nơi chúng tôi thường đến vì nó luôn vắng khách, tuy thức ăn rất ngon. Cô ấy cho tôi biết khi đi du lịch đến Nepal, cô đã sống vài tuần trong một tu viện. Một buổi chiều, cô đi dạo gần cạnh tu viện với một
tu sĩ, vị này mở
chiếc túi mang theo người và đứng nhìn thật lâu các thứ chứa bên trong. Lát sau ông nói với Isabella:
" Cô có biết là những quả chuối có thể dạy cho có ý nghĩa của cuộc sống không?"
Ông
lấy trong chiếc túi ra một quả
chuối đã hư thối và vất ra xa.
"Đấy là cuộc sống đã diễn ra rồi qua đi và chẳng đạt được tới mức cao nhất, mà giờ đây muốn tới thì trễ quá
rồi."
Sau đó, ông lấy ra một quả chuối khác, lần này chuối còn xanh. Ông
đưa cho cô ấy xem và bỏ lại
trong túi.
"Đây là cuộc sống chưa diễn ra và muốn có nó chúng ta phải đợi cho tới thời điểm phù hợp."
Cuối cùng, ông lấy ra một quả chuối chín, lột vỏ và chia
cho Isabella.
"Đây là thời khắc hiện tại. Hãy học cách nắm giữ lấy nó không sợ hãi chẳng
lỗi lầm."
GẶP
GỠ TẠI PHÒNG TRIỂN LÃM DENTSU
Ba
quý ông, tất cả đều ăn mặc lịch lãm, xuất hiện tại khách sạn của tôi ở Tokyo.
“
Ngày hôm qua, ông đã nói chuyện tại Phòng Triển lãm Dentsu, “ một trong ba người
nói. “ Tôi chỉ tình cờ đến dự và đến đúng vào lúc ông nói rằng không có cuộc gặp
gỡ nào do tình cờ. Có lẽ chúng tôi phải tự giới thiệu.”
Tôi
đã không hỏi làm sao họ biết được chỗ tôi lưu trú, tôi không hỏi gì cả; những
người có khả năng vượt qua những khó khăn như thế xứng đáng được chúng ta tôn
trọng. Một trong những người này trao cho tôi vài cuốn sách viết bằng thư pháp
Nhật bản. Người phiên dịch của tôi tỏ ra rất hào hứng: người đàn ông này là
Kazuhito Aida, con trai của một nhà thơ Nhật bản nổi tiếng mà tôi chưa hề nghe
nhắc tới.
Và đấy
đúng là điều mầu nhiệm của sự trùng hợp giúp tôi cơ hội được biết, đọc và chia
sẻ một phần nhỏ tác phẩm kiệt xuất của Mitsuo Aida (1924-91), nhà thơ, nhà thư
pháp, với những bài thơ nhắc nhở chúng
ta tầm quan trọng của tính hồn nhiên.
Bởi đã sống hết mình cả cuộc
đời
Đám cỏ úa vẫn còn khiến khách qua đường ghé mắt nhìn.
Muôn hoa chỉ việc nở
Bằng tất cả khả năng của chúng.
Cành huệ trắng,
âm thầm nở hoa bên thung lũng,
Không cần tự chứng tỏ mình cho bất cứ ai.
Nó chỉ sống vì cái đẹp
Thế mà con người lại không chịu “ chỉ “ như thế.
******
Nếu cà chua muốn biến thành dưa hấu
Chúng sẽ trông lố bịch vô cùng
Tôi luôn ngạc nhiên
Sao quá nhiều người
lại bận tâm
Muốn trở thành điều không phải là mình,
Làm cho mình lố bịch vậy thì được chi?
******
Bạn không cần lúc nào cũng tỏ ra khoẻ mạnh
Không cần chứng tỏ mọi việc lúc nào cũng ổn
Bạn không cần bận tâm về những gì người
khác nghĩ
Cứ khóc đi nếu cần thiết phải khóc
Khóc cho cạn khô dòng lệ
( Bởi chỉ lúc
đó bạn mới cười trở lại được )
******
Thỉnh thoảng, trên TV, tôi thấy cảnh khánh thành các đường hầm
hay cầu cống. Lúc nào cũng có nhiều quan chức và chinh khách địa phương đứng
thành hàng, ngay chính giữa là bộ trưởng hay nhà cầm quyền địa phương. Có cắt
giải băng, rồi khi ngững người phụ trách dự án trở về bàn làm việc, họ thấy bao
nhiêu là thư từ bày tỏ lòng biết ơn và ngưỡng mộ.
Nhữngngười đã đổ mồ hôi,
đã làm việc cho công trình, đã đào xới, vất vả dưới nắng hè hay đông giá
để hoàn thành công việc, không ai nhìn thấy họ, còn những người không lao động
bằng mồ hôi trên trán thì lúc nào cũng xuất hiện rõ nhất.
Tôi muốn là người có thể nhìn thấy được những khuôn mặt bị che
khuất, nhìn thấy những người không mưu cầu danh tiếng hay vinh quang, âm thầm
thực hiện vai trò mà cuộc sống đã giao cho họ.
Tôi muốn có thể làm điều này bởi lẽ những thứ quan trọng nhất,
thứ định hình cho sự tồn tại của chúng ta, chính là những thứ không bao giờ chường
rõ mặt.
NGHỆ THUẬT CỦA SỰ THỬ NGHIỆM
Pablo Picasso đã nói: “ Thượng đế, hơn hết thảy, là một nghệ sĩ.
Ngài sáng tạo ra hươu cao cổ, voi và kiến. Ngài không bao giờ làm theo một
phong cách đặc biệt nào. Ngài chỉ tiếp tục làm bất cứ thứ gì Ngài thích làm.”
Chính lòng khao khát
muốn bước đi tạo ra con đường phía trước, tuy nhiên, khi chúng ta khởi đầu cuộc
hành trình, chúng ta cảm thấy rất sợ hãi, như thể phải thực hiện mọi việc đúng
đắn ngay lần đầu tiên. Nhưng mà, do tất cả chúng ta đều sống cuộc đời khác
nhau, ai quyết định “ làm mọi việc đứng đắn” nghĩa là gì? Nếu Thượng đế đã tạo
ra con hươu cao cổ, con voi và con kiến, và chúng ta đang cố gắng sống trong
hình ảnh của Ngài, vậy cớ sao chúng ta phải cố theo đuổi một khuôn mẫu nào
khác? Một khuôn mẫu có thể giúp chúng ta tránh lặp lại những lỗi lầm ngu xuẩn
mà người khác đã phạm, nhưng, thường thì không phải vậy, khuôn mẫu có thể trở
thành sự tù túng khiến ta lặp lại những gì người khác vẫn luôn luôn làm.
Theo khuôn mẫu có
nghĩa là phải làm sao để cà vạt luôn hợp màu với bít tất. Theo khuôn mẫu có
nghĩa là ngày mai bắt buộc bạn phải có cùng quan điểm như hôm nay. Vậy thì việc
thế giới liên tục thay đổi là do đâu?
Thỉnh thoảng hãy thay
đổi ý kiến và cứ tỏ ra mâu thuẫn mà không xấu hổ nếu nó không phương hại đến
ai. Bạn có quyền làm như thế, bất kể những người khác nghĩ gì, bởi vì họ cũng nghĩ điều gì đó theo cách riêng.
Khi chúng ta quyết định hành động, một vài sự
thái quá có thể xảy ra. Có một ngạn ngữ xưa về việc nấu nướng: “ Bạn không thể
làm món trứng tráng mà không đập vỡ quả trứng.” Đương nhiên là những xung đột
không lường trước có thể phát sinh, và đương nhiên là có thể tổn thương trong
lúc xung đột. Vết thương sẽ lành, chỉ còn lại những vết sẹo.
Đây là điều may mắn.
Những vết sẹo này sẽ lưu lại với chúng ta suốt đời và chúng rất hữu ích. Nếu,
vào một lúc nào đó, chỉ vì muốn làm cho cuộc sống dễ chịu hơn hoặc vì một lý do
nào khác, niềm khát vọng muốn trở về với quá khứ trở nên mãnh liệt, chúng ta chỉ
cần nhìn vào những vết sẹo đó. Chúng là dấu vết do những chiếc còng tay để lại,
nhắc nhở ta về sự kinh khủng của tù ngục, và chúng ta lại tiếp tục đi thẳng về
phía trước.
Vì vậy, hãy bớt căng
thẳng. Hãy để Vũ trụ chuyển động chung quanh bạn và khám phá niềm vui khi tự
mình làm ngạc nhiên. “ Thượng đế đã chọn những điều dại dột của thế gian để làm
hỏng những người khôn ngoan.” Thánh Phao-lô đã nói.
Một chiến binh ánh
sáng thường thấy rằng có những khoảnh khắc nào đó lặp lại chính mình, anh nhiều
lần đối phó với những vấn đề, những tình huống như nhau, và nhận thấy những
tình huống khó khăn này trở lại, anh cảm thấy nản lòng, cho là mình không thể
tiến bộ trong cuộc sống.
“ Ta đã trải qua tất
cả những thứ này trước đây.” Anh tự nhủ với trái tim mình.
“ Vâng, bạn đã trải
qua những thứ đó trước đây,” trái tim đáp lời anh. “Nhưng chưa bao giờ anh vượt
qua chúng cả.”
Thế rồi người chiến
binh nhận ra rằng những trải nghiệm lặp đi lặp lại đó chỉ có một mục đích: dạy
cho anh những gì anh chưa được học. Anh luôn tìm ra một giải pháp khác cho mỗi
trận chiến lặp lại, và anh không xem những thất bại là lỗi lầm mà, đúng hơn, là
những bước đi dọc theo con đường dẫn đến cuộc gặp gỡ với chính mình.
PAULO COELHO
( Trích tuyển tập LIKE THE FLOWING RIVER -
Nguyên tác
tiếng Bồ Đào Nha, bản tiếng Anh của Margaret Jull Costa.
NXB Madison Park Press, New
York, 2006 )
THÂN TRỌNG SƠN dịch