Tôi là một con ngựa bất kham. Ngày nhỏ, mẹ tôi đã không
có thì giờ để huấn luyện tôi, bắt tôi bỏ vào chuồng, kềm cương cho tôi khỏi chạy,
trái lại bà để tôi lêu lổng cùng những đám mây hay như con dế mèn phiêu lưu
trong cuốn sách của Tô Hoài mà cô hiệu trưởng Hồng Ấn đã bắt học trò cô phải đọc.
Bây giờ tôi lại bị đẩy vào một chuồng lớn hơn, khắt khe hơn, bảo thủ hơn, phong
kiến hơn.
Xứ Huế lại buồn, buồn không thể tả. Mưa ủ dột dầm dề suốt
ngày. Trời thì sương muối, sương mù sáng đến trưa, che cả sông Hương. Và mùa
gió thì gió cắt da cắt thịt. Lại thêm những thành quách cũ mờ nhạt nổi hiện như
những nghĩa trang vua chúa đìu hiu.
Tôi thúc thủ trong thế giới ấy, hai chân chịu trận. Tôi
mang dép Nhật, để tóc dài. Mà hồn và trí thì muốn nổi loạn. Tôi tôn sùng cụ Trần
Tế Xương, Cao Bá Quát. Tôi si mê nhân vật Alexis Zorba the Greek.
Ba tôi buồn vì tôi không thể tả. May
mà tôi học tạm khá. Toán luôn luôn xuất sắc. Kỳ thi nào tôi cũng đậu kỳ đầu. Ai
cũng nghĩ tôi học hành chăm chỉ, cô đơn, sợ bạn bè
và suốt ngày chỉ miệt mài trong thư viện.. Nào ai biết, bên trong tôi, nỗi
buồn tuổi trẻ đến rưng rưng. Chiến tranh cận kề, tiếng nổ cũng cận kề. Những
tín hiệu càng lúc càng đánh về, mỗi ngày qua những đài ngoại quốc. Mỗi ngày,
trang nhật báo đầy tin chiến sự. Cả thế giới đã nhìn vào nước tôi và khóc dùm
nước tôi. Lệnh Tổng động viên đã ban hành. Một lứa tuổi được lệnh trình diện. Rồi một ngày nào đó đến phiên
lứa tuổi của tôi. Chắc chắn phải vậy.
Có những buổi chiều chỉ còn tôi với lòng thư viện rộng
mênh mông và lặng lẽ. Trong khi bên ngoài ánh nắng chiều đã hắt lên giàn
hoa giấy từ phía trường Jeanne D'Arc và trên mặt lộ những lá ngâu, lá điệp
đuổi nhau bay theo gió... Lúc ấy những con tính theo nỗi chán chường
mà trở thành một số zero buồn bã.
Như chiều nay, trang báo của tạp chí Time mở ra. Trân
đánh Bình Giã vẫn đang tiếp diễn. Thêm một tấm hình làm đau xót cả thế giới.
Đứa bé gái lỏa lồ vừa chạy vừa khóc. Đàng sau là lửa khói bốc lên đen kịt. Tấm
hình chụp để nhìn chứ không để nghe. Đối với kẻ không cận kề với chiến tranh,
không nghe tiếng đạn bom, thì bức hình chỉ mang đến sự hãi hùng, kinh hoàng qua
tấm thân lỏa lồ, qua chiếc miệng gào khóc, qua đôi mắt tột cùng sợ hãi và đau
thương. Còn tôi, tôi còn nghe cả tiếng nổ, còn thấy được thế nào là nỗi bất hạnh
của những đứa bé không cha không mẹ. Em kêu mẹ, kêu ba hay là em kêu lương tâm
loài người ? Rồi sau đó, em ở đâu?
Lòng tôi muốn nói, muốn chia sẻ. Tôi nghĩ đến những hình ảnh
cũ, trong viện mồ côi Hòn Chồng. Một giai đoạn lịch sử đã qua, nhưng nỗi bất hạnh
vẫn là bất hạnh cũ. Và tự dưng, tôi viết. Viết về một thảm kịch tuổi thơ. Nuớc
mắt tuổi thơ.
Tôi không bao giờ mơ ước thành nhà văn. Nhưng chiều hôm ấy,
tôi đã bỏ vào phong bì, và gởi về tòa soạn báo tạp chí Bách Khoa. Bởi lẻ nó là
tạp chí độc nhất mà tôi có thể tìm được tại thư viện Xavier này. Tôi muốn
mang nước mắt ấy cho người đọc khắp nơi. Tôi xin làm một tiếng khóc để
khóc cho em bé trên trang báo này.
Nước mắt ấy đôi khi trở thành định mệnh. Vợ tôi luôn luôn
nói về bài văn này trước khi gặp tôi. Nàng cũng đã khóc. Khóc nức nở, Để những
giọt lệ đã theo tôi trên khắp ngã đường lênh đênh. Từ người tình đến người
chinh phụ.
Và đó là định mệnh. Đó là lý do tôi có thể nói tôi xuất
thân từ lò Bách Khoa.
Tôi đã may mắn chọn đúng chỗ, và đúng người.
Bởi vì, không thể ngờ, tạp chí Bách Khoa đã đi bài của
tôi. Xúc động, đọc cả chục lần. Nhưng mà, những phần bôi đen thê thảm như mảng
tang chế. Tôi đã viết thật, vì tôi đã thấy và đã sống ờ trong cô nhi viện, vì
tôi cũng đã từng nín thở nằm ép dưới đáy giường, phản, để tránh đạn. Tôi
đã khóc tuổi thơ của tôi vì chiến tranh. Bây giờ tôi khóc cho tuổi thơ của các
em tôi. Nhưng người ta đã tàn bạo đục, cắt, bôi, xóa viện cớ làm lợi cho địch.
Ba biết được. Bởi lẽ tôi dùng tên thật. Người
ta mách lại ông. Ông rầy tôi dữ dội. Ông nói cái nghề này chỉ thương mây
khóc gió, nghèo mạt rệp, không có danh giá gì. Ông sợ tôi xao lãng học hành nên
thi hỏng chăng.
Sự thật, xét cho cùng, ba tôi có lý.
Đời ông đã quá khổ. Ông không muốn tôi khổ như ông. Ông
muốn tôi phải đỗ đạt, ra đời có bằng cấp và chức phận.
Nhưng từ cái bài văn định mệnh ấy, tôi bị chất cần sa ma
túy là văn chương hành hạ. Tôi đã nếm thử, và đã bị chất độc thấm vào máu huyết.
Nó làm tôi ngất ngư. Tôi xao lãng việc học hành. Tôi bỏ
qua cơ hội khi trường đại học sư phạm Huế cho phép thu nhận những
sinh viên có chứng chỉ dự bị Toán hay Toán Lý Hóa vào thẳng năm thứ hai. Đó là
dịp tốt nhất để được hoãn dịch. Và đó cũng là cơ hội tốt để kiếm một cô vợ mỹ
miều xinh đẹp, khỏi cảnh "người qua nhà tôi mỗi ngày bốn bận/nón che ngang nên chẳng thấy tôi buồn" (thơ của
Phan Nhự Thức).
Tôi hiểu rằng con đường văn chương là con đường đầy tai họa
không phải lót hoa trải thảm.
Nó mang đến cho gia đình và bản thân sự bất an. Vì
văn chương đã dựa vào sự thật. Mà sự thật vẫn là điều tối kỵ cho một
xứ sở đảng trị hay độc tài. Cái sự
thật mà tuổi trẻ của chúng tôi không thể nói lên tiếng nói, trừ tiếng hấp hối
trên bãi chiến trường, trong phòng cấp cứu.
Cũng
vì tôi đi vào con đường viết văn ấy, mà ba tôi rầu vì tôi không ít. Tôi ứa nước mắt. Phải, tôi chính là con ngựa ôn dịch.
Ngày trước, tôi đã gây khổ, gây buồn cho mẹ. Và bây giờ cho ba.
Tình thương của ông ngập lụt trên thân thể tôi. Ông là mẹ từ tâm. Ông là ông thánh hiền hào quang soi rọi
cả cuộc đời ngỡ như tàn tạ của tôi. Ông đã quạt cho tôi bao nhiêu đêm, hết
tay phải qua tay trái, để tôi được mát. Và cả những giọt lệ tủi cực như cứng
đầy ở cuống họng không thoát ra được, vì phải sống giữa loài ngạ quỉ. Ấy vậy,
tôi không lạy ông, lại bắt ông lạy tôi:
- Tao lạy mày, đừng viết nữa.
Tôi sa ngã rồi. Văn chương ơi..
Không phải riêng ba tôi nói lạy tôi mà còn người
con gái mà tôi yêu đầu đời cũng lạy tôi.
Đừng xây dựng nhân vật nữ giống như em nữa. Đừng có
nói truyện văn chỉ là hư cấu, và nhà văn là ông vua có quyền tối thượng để
hành hạ em nữa.
Trời ơi, khi tiếng thì thầm mà miệng không thể nói
ra, thì văn chương sẽ thay dùm để nói hộ dùm tim mình. Khi tôi không có
ai trên đời này, mẹ cha anh em bạn hữu, thì chỉ có em làm cõi nương tựa, sao em
lại trách tôi.
Em bắt tôi phải điên khùng. Em khiến cái kiêu ngạo của
tên thanh niên bị lép vế, trở thành số không. Và cái tự ái của hắn càng bốc cao
ngùn ngụt. Em cười cười nói nói, đọc kinh nhắm mắt dịu dàng làm sao. Em mang áo
màu lam đi lễ chùa qua nhà tôi ngày rằm mồng một khiến tôi phải nín thở, trời
ơi, đến độ phải thuộc lòng câu thơ của một thi sĩ nào đó: em đi dáng mỏng
như là gió, phơi tuổi vàng ta trên ngọn cây, và ghen đến cả ông trụ
trì. Em không hiểu con tim tôi không phải là một cái máy bơm máu.
Nó còn hơn thế nữa. Ðang yên ngủ bỗng nhiên một hôm nào bị đánh thức như ba hồi
trống dục. Nó đòi được yêu. Tui không thể cứ nhảy hoài một điệu buồn bã như vậy.
Tui phải vùng dậy, cách mạng. Tui phải đòi quyền sống. Tui phải yêu ai cứ bảo
là yêu. Ghét ai cứ bảo là ghét.
Em làm sao hiểu có biết bao nhiêu trang giấy tôi đã chung
thủy với một nhân vật Quỳnh không, hỡi em hiền như ma soeur ma sao tâm như là gỗ
đá ?
Vâng, thì tôi sẽ vì em mà xa.
Tôi đã lỡ dại dột sa vào tình yêu, cũng như sa vào văn
chương.
Thôi thì chỉ có cách là bỏ vào Saigon.
Thôi thì chỉ có cách là đổi Trần Quí Sách thành Trần Hoài Thư.
Để em xa một tay du thủ.
Để ba tôi phải vừa lòng không còn thấy một tên Trần Quí Sách bất hiếu bất mục trên văn đàn miền Nam nữa.
TRẦN HOÀI THƯ