Friday, January 26, 2018

376. NGUYỄN MINH NỮU Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua

Ảnh: Google image

"Tìm đâu cho thấy Trương Thăng Phủ
Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua "
Thơ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng.

Tôi sinh ra ở Hà Nội, lớn lên ở Saigon và hiện giờ đang sống ở Hoa Kỳ. Sinh ra ở Hà Nội, và rời khỏi Hà Nội khi chưa hình thành ký ức, nên những gì tôi nhớ về Hà Nội là rời rạc, mỏng manh và rất mờ nhạt. Có chăng chỉ là giọng nói mà tôi được thừa hưởng từ gia đình. Nhưng tôi lại biết rất nhiều về Hà Nội, bởi vì chung quanh tôi ngay từ thời thơ ấu là những con người của Hà Nội.  Mẹ, các anh chị, các bác, các chú họ đem theo Hà Nội trong tâm tưởng  và kỷ niệm, tôi được tiếp nhận một cách vô tình lời ăn tiếng nói, cách cư xử và cùng lúc một đời sống Hà Nội nhiều mộng mơ.

Năm 1882, Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, Tổng Đốc Hoàng Diệu tử tiết theo thành, Triều đình Huế đầu hàng, bỏ đất Bắc cho Pháp để quay lại giữ lấy Huế . Triều đình gửi chiếu chỉ cho tướng sĩ Bắc Hà giao thành giao đất cho Pháp. Tán Tương Quân Vụ tỉnh Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ, đem quân lùi vào khu rừng núi Bãi Sậy lập chiến khu chống Pháp. Các tướng sĩ thuộc quyền của Tán Thuật ở các trấn Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Hưng Yên, Thái Bình nhiều người cũng bỏ quan chức, kéo theo binh lính và gia đình lập các chiến khu căn cứ khắp nơi . Trong đó, có Đề Đốc phủ Thường Tín là Nguyễn Tề gọi là Đề Thường, cùng em là Bang Biện huyện Duyên Hà Nguyễn Tốn gọi là Bang Tốn,  cùng hưởng ứng theo và dẫn quân đóng tại  Hưng Yên. Ba năm sau,  Năm Ất Dậu 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết phù tá vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị, tại đây vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương  lời lẽ thống thiết: "Trẫm đức mỏng, gặp biến cố này, không thể hết sức giữ toàn, đô thành bị hãm, Từ giá phải dời, tội ở mình trẫm, xấu hổ vô cùng. Chỉ duy luân thường quan hệ, trăm quan khanh sĩ không kể lớn nhỏ, tất không bỏ trẫm, kẻ trí hiến mưu, người dũng hiến sức, kẻ giàu bỏ của trợ giúp quân nhu, đồng bào đồng trạch chẳng từ gian hiểm, phải thế chứ ?" ( bản dịch Wikisource).

Cũng năm đó, Thống tướng Pháp là Roussel de Courcy giao cho thiếu tướng François de Négrier, trung tá Donnier cùng Hoàng Cao Khải mở cuộc càn quét lớn bình định Bắc Hà. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra  với quân Pháp trang bị hùng hậu, vũ khí hiện đại  và Nghĩa quân chỉ có gươm giáo, vài khẩu hỏa mai, không có đường tiếp tế và không có quân tiếp ứng nên Nghĩa quân nhiều nơi vỡ trận, tan nát, Đề Thường, Bang Tốn  bị Pháp bắt và xử bắn tại Hải Dương.

Con cháu Đề Thường, Bang Tốn bỏ làng quê Thái Bình theo đôi quang gánh của mẹ trốn chạy suốt mười lăm năm. suốt từ năm 1885 cho tới 1900, mười lăm năm lưu lạc trốn tránh mới có lệnh chiêu an, không hỏi tội, Con của Đề Thường là Nguyễn Can Mộng, cùng với con của Bang Tốn là Nguyễn Thúc Khiêm mới được về làng, lúc đó cả hai đã quá tuổi 20, bỏ công ra mài dũa chữ nghĩa, học hành thêm 12 năm nữa  Nguyễn Can Mộng đỗ Cử Nhân khoa Nhâm Tí 1912, và Phó Bảng khoa Bính Thìn 1916. Nguyễn Can Mộng  được bổ làm Giáo Thụ huyện Ý Yên, Nam Định , sau đó thăng Đốc Học tỉnh Sơn Nam, thì từ quan về dạy học và làm về ngành giáo dục, làm Giáo Sư giảng dạy về Hán Văn của trường Bưởi cho đến cuối đời.  Nguyễn Thúc Khiêm thi đậu Tú Tài, rồi không thi nữa chỉ chuyên sáng tác Kịch  thơ, Chèo Cổ và thành một tác giả lớn của ngành Chèo Cổ Việt Nam.

Bảng Mộng là lớp nhà nho cuối cùng của truyền thống Hán Học ở Việt Nam, sinh ra trong một gia đình chống Pháp, Cha và chú bị giặc bắt và hành hình. Nhưng từ ngàn năm  lịch sử, con đường  tiến thân duy nhất của khách nam nhi là học hành, thi đỗ để làm quan, con đường đó phù hợp với chí khí kẻ làm trai, lại vừa là những khát vọng bình thường của xã hội. Nhưng lúc đó lại là cuối con đường, triều đình vua quan không còn là nơi nương tựa, Chữ nghĩa thánh hiền không phải là cái tự tin.  Phải sống thế nào và phải làm gì để không ngược lại với cả một quá trình gian khổ tập luyện đã thành một nề nếp  một đời, vừa đem được cái kiến thức thực học ra giúp đời sau.

Ngay giai đoan đó, có những vị "bỏ văn theo võ", chiến đấu hào hùng nhưng mà vô vọng, có những vị mong vận động một thế lực nước ngoài khác,  hay tìm cách nâng cao dân trí để tính kế dài lâu.  Con đường Bảng Mộng chọn là hoạt động văn hóa và giáo dục.  Thời điểm đó, chữ quốc ngữ đang phát triển vũ bão để đáp ứng với nhu cầu một xã hội mở cửa tiếp nhận văn minh thế giới, càng phát triển, chữ quốc ngữ lại đối đầu với một nghịch lý là không đủ từ ngữ diễn tả. Cách đơn giản và tiện dụng nhất chính là tạo chữ mới từ căn bản Hán Tự. "Càng muốn mở mang Tân Học một cách vững chãi, lại càng phải nắm vững tinh hoa của Cựu Học." (NS NCM)

Là người theo cựu học từ thời niên thiếu, nên nhu cầu học , hiểu và am tường chữ Pháp để làm cầu nối cho Quốc Ngữ, Nguyễn Can Mộng quen thân với Phán Tường là Thông phán Nguyễn đình Tường làm việc tại Tòa Sứ Hải Dương. Phán Tường hơn Bảng Mộng gần một giáp, người dạy chữ Pháp, người dạy chữ Hán trao đỗi lẫn nhau thành đôi bạn vong niên tri kỷ. Phán Tường góa vợ, các con đã lớn ở riêng, còn một cô con gái út tuổi vừa 17 thì Phán Tường lâm bệnh nặng, biết mình không thể qua khỏi, Phán Tường gọi Bảng Mộng về Hải Dương gặp mặt, trăn trối chuyện sau và ký thác cô con gái út cho Bảng Mộng.  Đây là người vợ thứ Ba của Bảng Mộng và là người đi với ông cho đến cuối đời.


Sau khi xin về Trí Sĩ, Bảng Mộng dắt bà ba và các con về quê ở làng Hoàng Nông, Huyện Duyên Hà, Tỉnh Thái Bình. Bà Ba có với Bảng Mộng 8 người con, Người con thứ bảy sinh ra tại làng quê Thái Bình vào thời điểm nạn đói bắt bắt đầu hoành hành năm 1945. Kỳ lạ là sinh ra vào đúng một Kỷ (60 năm) sau cái chết ông Ni là cụ Đề Thường. Ất Dậu 1885 và  Ất Dậu 1945.  Cậu bé sinh ra trên người có nhiều đốm đỏ trên bờ ngực, và đau yếu, không được mấy ngày khỏe mạnh. Cuộc sống làng quê thì khó khăn, cơ ngơi là nằm trong tay của hai bà vợ lớn, bà vợ Ba được cho ăn đã là quý, tiền đâu mà thuốc men chăm sóc cho con.

Khi về quê, Bà Ba không thể ở nhà hai bà vợ trước, mà Bảng Mộng phải gửi bà cùng các con ở nhà những người thân thuộc trong làng. Cậu bé chưa đầy năm, một hôm , con kêu khóc quá, bà Ba bế con đi loanh quanh dỗ cho con ngủ, khi tạt vào một gốc đa ngồi nghỉ, nhìn ra thấy đang ở giữa sân đình làng Hoàng Nông,  bà Ba vừa khóc vừa lễ thánh rằng thôi nếu số con sống thì Thánh cho con khỏe mạnh đi, để mẹ còn chạy vạy kiếm miếng cơm nuôi mấy anh chị, còn nếu số con chỉ đến thế này, thì thôi con chết đi, bao giờ Thầy Đẻ khá rồi con lại về với Thầy Đẻ.....khấn thánh rồi thì khóc.khóc rồi lại khấn lầm thầm ....nhìn xuống đứa bé đã im lặng như ngủ , lắc lắc người mới thấy thân thể lạnh toát hết rồi.

Bà Ba khóc thất thanh ôm con chạy về nhà.  Bảng Mộng chạy ra đón con vào nhà, mạch không còn , người bắt đầu lạnh nhưng thân thể vẫn mềm dịu. Bảng Mộng hỏi chuyện, khi biết được lời cầu mong của bà Ba, Bảng Mộng lấy bút lông, pha mực tàu viết vào lòng bàn tay cậu bé chữ Lai Sinh (來生), rồi thắp hương lên bàn thờ khấn : Số con là thế, Thầy không làm gì được, thôi con ra đi thanh thản, Thầy đã làm dấu vào tay con rồi, khi Thầy Đẻ khá giả rồi con lại về với Thầy Đẻ nhé.

Những ngày đau xót đó, bà Ba chỉ ôm mặt khóc rấm rức một mình, Căn nhà hai gian ba trái đó với cái ao lót gạch, với hàng cây nhãn ven nhà, rồi ruộng rồi ngô không phải là chỗ sống của mình, ngay cả người chồng kính  mến cũng là chồng chung, khó khăn không  tìm ra phút giây riêng tư nào chuyện trò.

Một hôm, Bảng Mộng đi ăn giỗ làng bên, bà Ba chờ tới chiều, biết chồng sắp về, lén chạy ra đầu làng, trốn sau bụi rơm chờ. Lát sau khi thấy thấp thoáng bóng Bảng Mộng  mới chạy ra đón đầu.

Bảng Mộng ngạc nhiên: sao bà ở đây.
- Tôi đợi ông đã lâu, muốn nói với ông chút chuyện.
-Chuyện gì vậy?
-Có lẽ tôi phải đi ông ạ
- Bà đi đâu, loạn lạc khắp nơi, thân gái dặm trường,  con cái ríu bước  làm sao đi được.
- Tôi đi dắt theo con Thanh để trong nom lẫn nhau, còn lại mấy đứa ở nhà thì giao lại hết cho Ông, Ông đưa về bà Me nuôi coi như tôi không còn nữa. Một năm sau nếu tôi còn sống, tự lực được đời mình thì sẽ về đón các con, còn không thì hôm nay gặp ông là lần cuối.

Năm năm sau, năm 1950, khi đã sống ổn định ở Hà Nội, bà Ba hoài thai đứa con thứ 8. khi sanh nở xong, người nhà chạy về báo tin cho cụ ông. Câu hỏi đầu tiên là con trai hay con gái, khi biết là con trai, cụ Ông vội vã vào bệnh viện lật bàn tay đứa bé ra xem xét và lạnh toát cả người khi thấy nét mờ mờ  mầu đen nhạt nơi lòng bàn tay hai chữ Lai Sinh, lại một điều kỳ lạ nữa, đứa bé mới sinh cũng có những đấu đỏ trên người như dấu đạn bắn vào , gần như đã biểu lộ hết sự trở về của một nhân duyên, nên quyết định đặt tên đứa bé là tên người anh đã mất : Nguyễn Minh Kha.

Minh Kha cũng không khỏe, từ lúc sinh  là èo ọt. nay ốm mai đau dù quen biết Bác sĩ đến khám mỗi này , thuốc men bổ dưỡng cách gì cũng vậy. Bệnh không ra bệnh gì, mà cứ  bạc nhược dần mỗi ngày. Chợt có một vị túc nho am tường lý số ghé thăm, nhìn đứa bé hồi lâu rồi ra nói với Bảng Mộng rằng đây là hiện tượng tái sinh, hoặc là báo ân, hoặc là báo oán, cứ tình trạng này, cháu  cũng chẳng sống được bao lâu đâu, tôi có một cách giúp gia đình vượt qua, ông có chịu nghe không? Đó là gia đình mời tăng về nhà trì tụng chú Đại Bi và chú Lăng Nghiêm  ba ngày liên tục, rồi đem cháu bán khoán cho Chùa hay Đền , sau đó nhận lại đem về nuôi, đặt tên khác thay đổi cuộc đời nó mới hy vọng qua được. Cái đó kêu là đổi mệnh đó.

Đã có bệnh thì vái tứ phương, con thì thiêm thiếp trên giường, Bà Ba thì vừa khóc vừa van xin nên Bảng Mộng thỉnh mời Hòa Thượng Tố Liên  lúc đó đang là trụ trì chùa Quán Sứ  tới làm lễ tại nhà, sau ba ngày làm lễ, cho người bế đứa bé ra Đền đức Thánh Trần bỏ lại giữa sân. Rồi bà Ba chy ra coi như nhặt được, đem về nhà đổi tên là Nguyễn Minh Nữu, Nữu là cái khuy áo bằng ngọc, mang ý nghĩa cất giữ lại cái đang có. Thực sự là từ đó tới lớn, các vết đỏ trên người dần nhạt đi và biến mất, cậu bé không bệnh hoạn gì nữa, hay ăn chóng lớn và... sống tới bây giờ là ông già 69 tuổi khi viết những dòng này đây.

Sau khi từ quan về nhà dậy học và viết sách, tới khi theo bà Ba về Hà Nội, Bảng Mộng bắt đầu đi dậy học lại ở Trường Bưởi (lúc bấy giờ gọi là Trung học Bảo Hộ) , là người cùng với Phó Bảng Ngô Thúc Địch, Học giả Trần trọng Kim  mở các lớp chữ Nho tại đền Ngọc Sơn mà về sau từ căn bản đó để hình thành ra Đại Học Văn Khoa Hà Nội.  Phó Bảng Nguyễn Can Mộng dành nhiều thời gian cho viết sách, trên báo Tứ Dân Văn Uyển ông viết nhiều biên khảo về văn học, lịch sử địa lý, phong tục tập quán của người Việt nhằm bảo vệ quốc hồn quốc túy của dân tộc. Năm 1949 , đại học Văn Khoa Hà Nội thành lập, ông được mời phụ trách dạy Hán Văn ở trường cho đến cuối đời.

Theo phép thi cử thời nhà Nguyễn  thì ngày xưa có các khoa thi Hương, thi Hội và thi Đình.

Thi Hương bốn năm tổ chức một lần vào các năm Tí Ngọ Mão Dậu.  Các khóa sinh vào bốn vòng thi , vượt qua vòng 1 mới dược thi vòng hai, nếu trúng cách ba vòng thì được gọi là Tú Tài, qua bốn vòng thì trúng cách Cử Nhân.  Đỗ Cử Nhân là đã được ban cấp áo mão , dự tiệc và cho vinh quy bái tổ rồi, năm sau, những người đỗ Cử Nhân mới được tham dự cuộc thi ở kinh đô là Thi Hội.

Thi Hội cũng qua bốn vòng thi, nếu các Cử Nhận vượt qua ba vòng thì được gọi chung là Tiến Sĩ.  Khi yết bảng, những người đạt được 10 điểm thì gọi là Chánh trúng cách, tên được ghi trên bảng Giáp, những người đạt 9 điểm gọi là Thứ Trúng Cách ghi tên lên bảng Ất, gọi là Phó Bảng.

Giáp Tiến Sĩ và Ất Tiến Sĩ đều được gọi là đỗ Đại Khoa và được vào cung đình dự cuộc thi sau chót ngay tại sân Đình do Nhà vua ra đề tài và chấm điểm. Thi Đình là cuộc thi phúc tra cuối cùng để thẩm định và xếp hạng các tân Tiến Sĩ.

Trong tác phẩm "Các nhà khoa bảng Việt Nam 1095-1919 " của các tác giả Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga- Nguyễn Hữu Mùi  thì khoa bảng Việt Nam từ ngày lập quốc cho cuối triều Nguyễn  hơn 800 năm có 184 khoa thi, và ghi được danh tính các vị Đại khoa từ người đầu tiên là Lê văn Thịnh ( triều Lý) cho đến người cuối cùng là Hoàng Yến (đỗ Phó Bảng  khoa Kỷ Mùi 1919, niên hiệu Khải Định thứ tư, triều Nguyễn) tổng cộng là 2894 người. Trong danh sách này, Nguyễn can Mộng  được ghi vào số thứ tự 2866. Thi đỗ năm 1916, và  ba năm sau là năm khoa thi cuối cùng, chấm dứt cái học nhà Nho của Việt Nam.

Tác phẩm để lại về Hán Văn  có: Nam Học Hán Tự, Tự Điển Việt Hán Thành Ngữ.

Về chữ Quốc Ngữ có : Hiệu đính Truyện Kiều. Hiệu Đính Ngạn Ngữ Phong dao.

Sáng tác truyện thơ Bức Gương Lòng Son, Sáng tác thơ Nông Sơn, Lễ Tục Việt Nam. Lịch sử Bắc Kỳ.

Trong giai đoạn 1930 đến 1950, Nông Sơn Nguyễn Can Mộng nhận định :"Chữ Quốc Ngữ đang lúc phát triển vũ bão đẻ đáp ứng với nhu cầu một xã hội mở cửa, chuyển mình tiến lên cho kịp năm châu thế giới thì lại gặp một vấn nạn sinh tử là làm sao xây dựng được một kho từ ngữ phong phú tương xứng với sức mạnh của nó. Cách đơn giản nhất nhưng tiện dụng và hợp lý nhất là tạo chữ mới từ căn bản Hán Tự. Cho nên đã xuất hiện một nghịch lý là càng Âu hóa thì lại càng phải quay về Hán tự, càng muốn mở mang Tân Học một cách vững chãi lại càng phải nắm vững Cựu học" ( Lời mở tác phẩm tự điển Việt Hán Thành Ngữ)

Nông sơn Nguyễn Can Mộng là người đầu tiên sưu tầm và hiệu đính có hệ thống tục ngữ phong dao, trong các số báo Tứ Dân Văn Uyển tháng 3,4,5 xuất bản năm 1936, gồm 601 câu ngạn ngữ từ 4 chữ, 5 chữ ...cho tới 12 chữ một câu và 1121 bài phong dao. ( nay số tháng 4/1936 không còn nữa nên đã thất lạc khoảng 500 bài phong dao)

Năm 2016, khi tôi về Hà Nội, lên Sơn Tây thăm mộ cha, ghé qua đền Ngọc Sơn nơi có lớp Hán văn đầu tiên năm 1940, ghé ngang trường Chu văn An là hậu thân của Trường Bưởi ngày xưa, ghé nhà số 7 đường Lý Quốc Sư , căn nhà nơi tôi đã sống khi sinh ra, và sau chót là ghé lại Cửa Bắc thành Hà Nội, nơi còn vết đạn quân Pháp bắn khi tấn công thành Hà Nội lần thứ hai vào năm 1882. Vết đạn bắn lõm vào thành vẫn còn và nhớ tới bài thơ của cha, tiếc là bài thơ 8 câu mà gia đình chỉ còn ghi lại được 6 câu, bài thơ tên là Đề Cửa Bắc Thành Hà Nội :

Cửa Bắc bao năm vẫn đứng trơ
Vết thương đau mãi đến bây giờ
Cảm người xương trắng theo thành ấy
Dãi tấm lòng son với nước xưa
Dư đồ nay đã thu về cả
Linh phách anh hùng sống lại chưa?

Truyện Kiều gồm 3254 câu, nghĩa là 1627 câu lục và 1627 câu bát. Những người mê Kiều có thể lấy các câu (lục hay bát) nguyên ở các vị trí và hoàn cảnh khác nhau trong Truyện Kiều ghép lại sao cho đạt được sự phù hợp về vần, luật, đồng thời “vịnh” được một tình huống mình muốn. Đây là thú chơi và nghệ thuật các nhà Nho gọi là “Lẩy Kiều”.

Muốn “Lẩy Kiều”, nghĩa là nói bằng Kiều, phải hình thành được cả quyển Kiều trong óc và trong tim, nghĩa là phải “Sống Kiều”. Lãng Nhân, trong tác phẩm “Chơi Chữ” đã viết về “Lẩy Kiều” như sau:

"... Về lối “Lẩy Kiều”, ông Bảng Nông Sơn là một trong những tay cự phách. Ông  vốn là người phóng khoáng, vì phóng khoáng nên hay thiếu tiền, có lần đi vay nợ tây đen. Lệ vay phải có  người ký bảo đảm, mình không trả được thì chủ nợ cứ người bảo đảm mà đòi.

Đến hạn, ông Bảng tất nhiên không trả được, mà rủi thay người bảo đảm cũng không xoay ra tiền, cho nên việc đã đến phải đến; tây đen đệ đơn kiện, xin câu lưu ngay ông bảo đảm là người có tóc. Tòa cứ theo luật mà lên án: ông bảo đảm ngồi tù. Ông Bảng ân hận lắm, nhưng biết sao bây giờ? Chỉ còn cách gửi vào đề lao mấy câu “Kiều Lẩy” để an ủi: 

Tù Nợ

Tin tôi nên quá nghe lời,
Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
Phép công chiếu án luận vào,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ!
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây…
Trông gương trong bấy nhiêu ngày,
Khéo là mặt dạn mày dầy khó coi…
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Còn thân ắt hẳn đền bồi có khi!

Mấy câu này ông bảo đảm ngâm nga, chắc cũng lấy làm thú, nên đành ngồi trong bóng rợp ít lâu mà không nỡ trách bạn một lời: cho hay cái ma lực của văn chương!

Ông Bảng còn “Lẩy” nhiều bài thật kỳ thú, tiếc rằng chúng tôi chỉ chép được vài câu.

Có lần, ông đi dự tiệc do một bạn cũ mời, bạn này mới đến trọng nhậm chức tổng đốc tỉnh Thanh nên tổ chức một bữa rượu mừng.

Bạn vốn chân cử nhân, lúc thiếu thời có gia nhập một đảng cách mạng. Đi phiêu lưu bên Tầu một dạo, ông từng dịch ra quốc âm bài “Hồ Trường” lâm ly cảm khái do Nguyên-quân, một khách giang hồ lạc phách làm ra.

Bài này mỗi khi có tửu hứng, nghệ sĩ Trương Đình Thi lấy dao bầu nhà ả đào làm gươm, vừa múa vừa hét, bi tráng như kẻ sĩ nước Yên, nước Triệu khi xưa:

Hồ Trường

 Trượng phu đã không hay xé gan bẻ cật phù   
 cương thường,
 Sao lại tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương?
Trời Nam nghìn dặm thẳm;
Mây nước một màu sương.
Học không thành, công chẳng lập,
Trai trẻ bao lâu mà đầu bạc;
Trăm năm thân thế bóng tà dương.
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi:
Trời đất mang mang, ai người tri kỷ?
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nướcbiển Đông chảy
xiết , sinh cuồng loạn.
Rót về Tây phương,
Mưa Tây sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút.
Đá chạy cát giương;
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt,
Có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta, ta biết lòng ta, ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ,
Hà tất thành sầu đối cỏ cây!

Sau ít năm phiêu bạt, ông về đầu thú, phản thầy là Sào Nam, tố giác nhiều bạn trong số có Huỳnh Nghi (sau đổi là Hoàng Hưng, đổi nữa là Đặng Văn Phương tức Đặng Bỉnh Thanh - người Cần Thơ, từng học tại Đồng Văn Thư Viện Đông Kinh, bị bắt và đầy Côn Đảo mang số tù 193); do đó, ông cử nhân cách mạng được bổ làm quan, chẳng bao lâu lên đến chức tổng đốc.

Tiệc rượu họp toàn bạn cũ, thơ phú tất nhiên là nhiều, song lúc ra về, ai cũng chỉ còn nhớ mấy câu Kiều mà ông Bảng đã “Lẩy”:

Kể từ lạc bước bước ra,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Giang hồ quen thói vẫy vùng,
Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?

Câu cuối cùng đã làm cho mặt chủ nhân đương hồng hào bỗng biến ra xám ngắt!

Đối chọi sao cho lại được lối “Lẩy Kiều”sắc bén của ông Bảng! Ay thế mà có lần một cô đào đã “Lẩy’ được cho ông phải “ứ hơi”: ông Bảng bữa đó qua chơi tỉnh Nam, gặp cô đào nọ là trang thanh sắc.

Nhân  lúc  cao hứng,  ông  ngỏ ý  sẽ giúp  cô một nghìn đồng làm vốn dọn nhà riêng, cho cô khỏi phải than thân là đương ở vào lúc “chân nâng”.

Sau khi ông trở về Hà thành, cô đào quả nhiên nhận được bưu phiếu, nhưng nhìn vào số tiền thì chỉ thấy ghi có 100$! Bực mình, cô gửi trả lại ngân phiếu, kèm hai câu:

Nghìn tầm, chờ bóng tùng quân,
Tiền trăm, lại cứ nguyên ngân phát hoàn!

Tổng đốc Hoàng Trọng Phu một buổi đi nghe hát với các quan, trong đó có ông Bảng. Một cô đào trẻ đẹp đến mời rượu Hoàng. Hoàng ghé môi hôn vào má cô. Một quan bắt cô phải hôn lại Hoàng. Cô đào thẹn thùng không biết phải làm sao, thì ông Bảng nháy cô lại bảo nhỏ. Sau đó, cô quay lại Hoàng, hãm liền hai câu:

Chút chi gắn bó một hai
Nay Hoàng hôn đã, rồi mai hôn Hoàng.

Hoàng vỗ tay cười, quay lại nhìn ông Bảng nói:
- Được rồi! Đâu có đó!

Một buổi, ông Bảng xuống xóm, gặp một cô đào mới đi lấy chồng được mấy tháng nay lại trở về nhà hát, ông hỏi:

Bấy lâu khăng khít dãi đồng,
Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng tại ai?

Cô đào tần ngần một lúc rồi nghẹn ngào ngâm:

Cũng là lỡ một lầm hai,
Cơ duyên âu cũng có trời ở trong.
(Trích trong tác phẩm CHƠI CHỮ của cụ LÃNG NHÂN, Nam Chi Tùng Thư Sài gòn ấn hành 1970, phần Tập Kiều, Vịnh Kiều, trang 93 – 97).

Trong tác phẩm khác của Lãng Nhân là Giai Thoại Làng Nho. Bài nói về Trương Hán Siêu. Trương Hán Siêu biểu tự là Thăng Phủ, sinh vào đời nhà Trần, trải qua bốn đời vua Anh Tôn, Minh Tôn, Hiến Tôn và Dực Tôn. Người đã soạn bài ký tháp Linh Tế nổi tiếng tới bây giờ. Sau  về trí sĩ tại núi Dục Thúy. Từ đó núi Dục Thúy trở thành một danh sơn thắng cảnh mà rất nhiều văn gia thi sĩ ghé thăm và đề thơ lưu niệm. Bài viết của Lãng Nhân viết là :

..." về sau, Phó bảng Nông Sơn Nguyễn can Mộng trong một buổi du ngoạn, đã đề một bài thơ đáng chú ý hơn nhiều bài khác:

Trải mấy tang thương đá chẳng già
Trơ trơ đứng giữa lớp đồi ba.
Chỗ người đi đến cây cằn lại
Khi nước lui rồi đá nảy ra
Mấy độ phong sương chồi cúc lão
Nửa phần rêu bám chữ thơ nhòa
Tìm đâu cho thấy Trương Thăng Phủ
Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua.

Núi chẳng già vì là núi "Non Nước". Khi nước lui rồi đá nảy ra lập lại ý của Tô Đông Pha trong bài Xích Bích: thủy lục thạch xuất. Câu kết man mác giọng hoài cổ " ( hết trích).

Tôi mồ côi Cha lúc 4 tuổi. Thân phụ tôi từ trần ngày 27 tháng chạp năm Quý Tị, đầu năm 1954. Mẹ tôi kể lại rằng , năm đó càng gần Tết thì bệnh cha càng nặng hơn, thuốc men sâm yến gì cũng chỉ dịu đi chút ít rồi đau lại, Mẹ tôi chuyển qua tin tưởng vào thiêng liêng nên đi cầu cúng khắp nơi, đã hiểu rằng không thể kéo dài, nhưng cầu cúng chỉ mong sao cho ra giêng ngày rộng tháng dài dễ bề lo liệu. Khoảng 25 tết thì vào lễ đền Thánh mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Dầy , Nam Định, khi ra xin quẻ Xâm, nhờ người đoán hộ. Ông Từ của đền xem xét rồi quay lại hỏi Bà hỏi về bệnh của ai đó phải không?  Mẹ tôi thưa vâng, Ông Từ lắc đầu, không được rồi,  bà phải về nhà ngay, Xâm nói là  "Thuyền gấp phải đi ngay" Bà về nhà lo liệu công việc đi chứ sợ không kịp.

Mẹ tôi vội vã về nhà ngày 26, thì 27 thầy tôi mất. Mẹ về , Thầy còn tỉnh táo, gọi mẹ tôi đến dặn dò khi tôi mất, tang ma làm đơn giản, sau này giỗ chạp chỉ cúng hương hoa , không cúng cỗ bàn.

Thầy tôi mất  ngày 27, năm đó lại là năm thiếu, không có ngày 30 nên ngay ngày 29 là đưa đi an táng tại Nghĩa Trang Voi Phục, Hà Nội.  Mộ nằm cạnh một nhà nho là bạn cũ ngày xưa.  Khi nghĩa trang này giải tỏa vào năm 1960,  thì gia đình đã di cư vào Nam, thật may là con của người bạn đó đang là một Bác sĩ  đã bốc cả hai ngôi mộ lên vùng đồi núi Bất Bạt, huyện Yên Kỳ , Sơn Tây.

Năm 1994, trước khi đi định cư ở Mỹ, tôi đã ra Bắc, và lần đâu tiên được  lễ trước mộ cha:

MÊNH MÔNG TRỜI BẤT BẠT.

Bất bạt ngừng ngay giấc ngủ ngày
Yên Kỳ ngàn mộ mở vòng tay
Đón tên phiêu bạt bao năm cũ
Mềm lòng quay lại cố hương đây.

Thắp nén nhang thơm ở giữa đồi
Nghe lòng thương nhớ đã trùng khơi
Xa trong cõi khác người quay lại
Rộng lượng Ba Vì , mây trắng thôi.

Muốn khóc lên cho nhẹ ngậm ngùi
Xin quỳ để thấy xót xa nguôi
Ai xui chim Việt về Nam nhỉ
Bốn chục năm trường nhạn lẻ đôi.

Nắng mới triêu dương trời đã tối.
Chồi chưa đủ lá đã phong ba
Lưu thân đi những phương xa lạ
Tiếp mạch thư hương, giữ nếp nhà.

Muôn dặm thiết tha hồn lữ thứ
Nồng nàn hương sắc Thủy tiên xưa
Trước mộ tâm dâng lời khấn nguyện
Nối dòng, xin nối lại dòng thơ.

Sơn Tây, Sơn Tây mưa lê thê
Đời sao hứa được lúc ta về
Gói cả núi đồi vào ký ức
Ta nhớ, và Sơn Tây nhớ nghe.


Lời di  huấn để lại là con cháu đặt tên theo thứ tự chữ lót Minh, Hồng, Tài, Bỉnh, Cơ, nghĩa là con của Nguyễn Minh là Nguyễn Hồng, con của Nguyễn Hồng là Nguyễn Tài, con của Nguyễn Tài là... Nay người con trai út Nguyễn Minh .... đã ở tuổi gần 70, đã có con có cháu nội ngoại. Ghi lại những ký ức của gia đình như một ký dấu cho con cháu đời sau, mà lòng hoài niệm vẫn mang mang : "Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua" 

NGUYỄN MINH NỮU


Cậu bé (hàng trước) là tác giả bài viết này lúc 2 tuổi