"Phương thuốc" ( nguyên tác có tên là 药 Dược
) là truyện ngắn rất nổi tiếng của Lỗ Tấn, với nghệ thuật độc
đáo, vừa hiện thực, vừa có nhiều hình tượng ẩn dụ sâu sắc, mở cho người đọc,
tuỳ nhãn quan và kinh nghiệm, nhiều cách hiểu và cảm thụ khác nhau.
Phương thuốc ở đây là phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh
bao tẩm máu người. Thật ghê rợn, lạc hậu và phản khoa học ( truyện viết năm
1919 ). Cũng giống như phương thuốc trị bệnh phù thủng của bố Lỗ Tấn ( rễ cây
mía đã kinh sương ba năm, và đôi dế, con đực và con cái ). Hậu quả còn hơn tiền
mất tật mang mà là tính mạng người bệnh. Không phải chỉ một gia đình tin vào
phương thuốc lạ lùng đó mà còn có biết bao nhiêu người, xô nhào nhau để mong
kiếm được.
Tập quán chữa bệnh phản khoa học đó là một trong những biểu hiện
của tình trạng mê muội của nhân dân Trung Quốc trong xã hội cũ, kể cả u mê lạc
hậu về chính trị nữa. Người tử tù, hẳn là một chiến sĩ cách mạng, bị mọi người
cho là làm giặc, là điên, bị người thân tố cáo để được thưởng...
Tác giả đã cho hai người mẹ, mẹ của người bệnh và mẹ của tử tù,
gặp nhau khi đi thăm mộ con nơi nghĩa địa phân biệt hai bên, dành cho người
chết chém hoặc chết tù một bên, và bên kia dành cho người nghèo. Hai người hai
tâm trạng, rồi cùng ngạc nhiên khi thấy có vòng hoa ai lén đặt trên mộ người tử
tù. " Thế là thế nào? " không ai lý giải được. Và kết thúc là hình
ảnhcon chim quạ đen vụt bay thẳng về phía chân trời xa.
Phương thuốc nào để chữa được bệnh, bệnh y học và bệnh xã hội? Ý
tứ tác giả chỉ nêu sự kiện ( tất nhiên có phê phán) và mở ra hướng nhìn xa thế
thôi.
Cũng nên ghi nhận thêm là từ năm 2010, truyện Phương thuốc này đã
được loại ra khỏi sách giáo khoa ngữ văn của Trung Quốc. ( theo 广州日报 Quảng châu nhật báo : 各地语文课本内容大改, 鲁迅作品接近消失 ( các vận ngữ văn khoá
bản nội dung đại cải, Lỗ Tấn tiếp cận tác phẩm tiêu thất ).
Dịch từ một bản dịch là điều "chẳng đặng đừng " vì luôn
có nhiều rủi ro, nếu không dựa vào một nguồn có uy tín và được tin cậy.
Bản Việt dịch này lấy từ nguồn trang http://www.chinese-shortstories.com của
Brigitte Duzan, nhà văn, nhà ngôn ngữ, dịch giả, tốt nghiệp trường luật và
ngoại giao của Hoa Kỳ ( Fletcher School of Law and Diplomacy ), viện ngôn ngữ
Luân Đôn của Anh ( Institute of Linguists ) và viện ngôn ngữ và văn hoá phương
Đông của Pháp ( INALCO, Institut national des langues et civilisations
orientales ).
Trang web nêu trên, tuy lấy tên tiếng Anh, chuyên giới thiệu bằng
tiếng Pháp truyện ngắn Trung Quốc hiện đại, với những chỉ dẫn về tác giả, tác
phẩm và những chú thích cặn kẽ về từ vựng.
Ngoài ra, Brigitte Duzan còn chủ trương một trang khác, chuyên về
điện ảnh ( http://chinesemovies.com.fr ).
Trong bản dịch dưới đây, xin được phép chuyển một đôi chữ để hợp
với tiếng Việt, petit pain dịch là bánh bao, chẳng hạn.
1.
Một đêm thu, lúc tờ mờ sáng, trăng đã lặn nhưng mặt trời chưa lên,
chỉ một dải trời xanh thẫm, mọi thứ đều ngủ yên, trừ vài con vật ăn đêm. Lão
Hoa Thuyên bất chợt ngồi dậy trên giường, bật que diêm, châm ngọn đèn bê bết
dầu, ánh đèn xanh nhạt sáng khắp hai gian quán trà.
"Ông đi đấy à? ", tiếng một người đàn bà đã có tuổi. Ở
căn phòng nhỏ bên cạnh nổi lên một cơn ho.
"Ừ..." Lão Thuyên đáp, vừa lắng
tai nghe, vừa cài nút áo, rồi, chìa tay ra, nói tiếp:
"Đưa đây tôi! "
Bà Hoa mò dưới cái gối một lát, lấy ra một gói bạc đồng đưa cho
chồng. Lão cầm lấy bỏ vào túi, tay run run vuốt hai lần phía ngoài túi, rồi
thắp cái đèn lồng, thổi tắt ngọn đèn dầu, đi về phía giữa phòng. Bên trong có
tiếng sột soạt, chợt ngắt quãng bởi một cơn ho dữ dội. Lão Thuyên chờ cơn ho dịu lại mới khẽ
nói: " Thuyên à, con khỏi phải dậy... Cửa hàng, đã có mẹ con
lo".
Không nghe con trả lời, lão nghĩ là nó đã ngủ yên lại rồi nên đi
ra. Trời vẫn còn tối đen, đường sá vắng lặng. Chỉ trông thấy được mặt đường xam
xám. Chiếc đèn lồng chiếu vào trước và sau chân lão. Thỉnh thoảng gặp vài con
chó, nhưng chẳng có con nào buồn sủa. Trời lạnh hơn trong nhà nhiều nhưng lão
cảm thấy mát mẻ,sảng khoái như bỗng dưng mình trẻ lại và ai cho phép thần thông
cải tử hoàn sinh, lão sãi bước dài. Trời cũng sáng dần, càng lúc càng nhìn rõ
đường hơn.
Đang chăm chú đi, lão bỗng giật mình, xa xa thấy ngã ba đường hiện
rõ. Lão bước lui vài bước ngập ngừng, đến ẩn mình dưới mái hiên một cửa hiệu
còn đóng kín mít, đứng tựa cửa. Một lúc sau, lão chợt thấy lạnh.
" Kìa, một ông già."
"Ông có vẻ hài lòng..."
Lão lại giật mình, trố mắt nhìn, có mấy người đi ngang qua. Một
người trong bọn quay đầu lui phía lão, lão không trông rõ mặt, nhưng từ đôi mắt
toát ra vẻ thèm thuồng, như người đói đã lâu nay thấy thức ăn. Lão nhìn chiếc
đèn lồng, đèn đã tắt. Lão sờ vào túi, cái gói cồm cộm vẫn còn đó. Lão ngước đầu
nhìn xung quanh và thấy đám đông người kỳ dị từng nhóm hai, ba người một đi đi
lại lại như những bóng ma, tuy nhiên, nhìn kỹ lại thì không thấy gì quái lạ nữa
cả.
Một lát sau, lại thấy mấy người lính từ xa đi tới, lão thấy rõ
miếng vải tròn trắng trên lưng và trên vạt trước áo đồng phục, khi họ đi ngang
qua, lão nhìn thấy cả đường viền màu đỏ thẫm thêu vào áo. Tiếng chân bước ào
ào, trong nháy mắt, cả nhóm người tụm lại, những người đi theo nhóm hai ba
người lúc nãy cũng dồn lại thành khối, rồi tất cả xô nhào tới như cơn sóng, khi
sắp tới chỗ ngã ba thì dừng lại, vây thành nửa vòng tròn.
Lão Thuyên cố nhìn, nhưng chỉ thấy lưng của đám người đang hết sức
giương cổ lên, như những con vịt bị bàn tay vô hình nào nắm lấy cổ xách lên.
Yên lặng được một lát, rồi như có tiếng nổ, đám đông xô đẩy nhau, ồn ào lùi lại
phía sau, rồi tản ra ngay chỗ lão đứng, suýt chen ngã lão.
" Này! Đưa tiền đây rồi cầm lấy hàng này", một người mặc
toàn đồ đen đứng ngay trước mặt lão nói. Lão co rúm người lại, cảm thấy đôi mắt
gã kia xoáy vào người như những lưỡi dao găm. Hắn chìa một bàn tay to lớn ra,
tay kia cầm một chiếc bánh bao nhúng vào một thứ nước đỏ tươi nhỏ từng giọt
xuống đất.
Lão Thuyên vội nắm lấy tiền định đưa cho hắn, nhưng không dám cầm
thứ hắn đang nắm trong tay. Gã kia nổi cáu, nói to: " Sợ cái gì? Sao không
cầm lấy?" Thấy Lão Thuyên vẫn do dự, hắn giật lấy cái đèn lồng, xé mảnh
giấy lấy gói cái bánh và ấn vào tay lão, rồi chộp lấy bạc, nắn nắn và quay gót
bỏ đi, miệng càu nhàu: " Cái lão già này!"
Lão Thuyên có cảm tưởng như nghe có ai hỏi:"Để chữa bệnh gì
đấy?" nhưng lão không trả lời, tâm trí lão chỉ chú ý tới cái gói đang cầm,
như nhà mười đời độc đinh nâng niu đứa con, không nghĩ chuyện gì khác. Hiện lão
đang đem mầm sống mới trong tay về cấy trong gia đình lão, và chờ đợi hạnh phúc
vô biên nó hứa hẹn mang lại. Mặt trời đã mọc, soi rõ con đường lớn dẫn thẳng
đến nhà lão, và chiếu sáng luôn, sau lưng lão, nơi ngã ba, cái bảng mục nát
trên có ghi mấy chữ thếp vàng đã nhạt màu: " Cổ ... đình khẩu " (1)
2.
Khi lão Thuyên về tới nhà, quán trà đã được quét dọn, sắp xếp, các
dãy bàn sạch bóng xếp đặt ngăn nắp. Nhưng quán không có khách, chỉ có thằng nhỏ
Thuyên đang ngồi ăn nơi dãy bàn giữa, mồ hôi nhễ nhại trên trán nhỏ giọt,
chiếc áo kép dính vào lưng, làm hai xương bả vai gồ lên thành hình chữ V lộn
ngược in nổi (2). Thấy con như vậy, lão không khỏi chau mày. Vợ lão từ dưới bếp
chạy ra, nhìn lão chằm chặp, đôi môi run run.
"Ông có đấy chưa?"
" Có rồi."
Hai người cùng đi vào bếp, bàn bạc một hồi. Bà Hoa đi ra, một lát
cầm về một lá sen khô, trải lên mặt bàn. Lão mở mảnh giấy từ chiếc đèn lồng,
lấy chiếc bánh bao đỏ ra, bọc trong lá sen. Thằng Thuyên vừa ăn xong, mẹ nó vội
nói: "Thuyên, con cứ ngồi đó, đừng vào trong này."
Lão Thuyên thổi lửa trong bếp, rồi cho vào bếp cái gói lá
xanh và mảnh giấy trắng đỏ xé từ lồng đèn: một ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên, và một
mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà.
" Thơm quá nhỉ! Các bác đang ăn gì đấy?"Đó là cậu Năm Gù
vừa mới tới. Ngày nào cậu cũng ghé lại quán trà, sáng đến đầu tiên, chiều về
cuối cùng. Vào ngay lúc này, cậu vừa đi bước thấp bước cao đến cái bàn kê ở
góc, phía đường cái, ngồi xuống rồi lên tiếng hỏi. Nhưng không ai trả lời.
"Cơm chiên đấy à?"
Vẫn không ai trả lời. Lão Thuyên vội đi ra pha trà cho cậu.
" Thuyên ơi! Vào đây con! "
Bà Hoa cao giọng gọi con từ phòng bên kia, bà đặt chiếc ghế đẩu
ngay giữa nhà cho con ngồi, mang cái dĩa nhỏ lại, trên dĩa có vật gì tròn tròn,
đen như than, bà nhỏ nhẹ nói với con: "Ăn đi con... Tốt cho con lắm đó!"
Thằng Thuyên cầm lấy vật đen thui đó, nhìn kỹ một lúc, có cảm giác
lạ lùng không sao nói được, như đang cầm mạng sống của mình trong tay. Nó cẩn
thận bẻ ra, và từ bên dưới lớp vỏ cháy sém bốc lên một làn khói trắng, khi làn
hơi tan đi, lộ ra hai nửa của chiếc bánh bao làm bằng bột mì trắng. Hắn nuốt
trọn ngay vào bụng, chẳng còn nhớ mùi vị thế nào, trước mặt chỉ còn cái dĩa
trống trơn. Cạnh nó, bà mẹ đứng một bên, cha nó đứng một bên, đưa mắt nhìn nó
như thể muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái
gì. Tim nó đập mạnh, nó không sao ngăn được, tay đè lên ngực, và lại nổi cơn ho.
" Ráng ngủ một lát con, sẽ đỡ hơn đấy!"
Thuyên nghe lời mẹ, đi ngủ, nhưng vẫn còn ho. Bà Hoa đợi nghe
tiếng thở đều mới nhẹ nhàng lấy cái mền vá chằng chịt đắp cho con.
3.
Quán trà rất đông khách, Lão Thuyên bận rộn, tay xách cái ấm đồng
đi rót trà cho khách, hai mắt lão thâm quầng.
"Bác Thuyên, bác có gì không ổn sao? Hay là bệnh rồi?",
một ông râu hoa râm nói.
" Có sao đâu."
" Không sao à?... Mà trông rạng rỡ thế kia, chắc là không
phải..."Ông râu hoa râm bỏ lửng câu nói.
" Chỉ tại ông ta bận rộn quá đấy thôi. Giá mà thằng con...
" cậu Năm Gù cũng chưa nói hết câu thì một người có khuôn mặt khó coi đâm
sầm vào, hắn mặc chiếc áo vải thô đen, hở ngực, thắt lưng đen cẩu thảquấn ngang
người. Vừa bước vào khỏi cửa, hắn đã nói lớn với Lão Thuyên:" Nó ăn chưa?
Đỡ rồi chứ? Ông Thuyên, may phúc cho nhà ông đó! May phúc thật đó, nếu tôi
không khôn khéo biết được tin..."
Một tay xách ấm trà, Lão Thuyên đứng yên vẻ cung kính, cười thật
tươi đón nhận những lời kia. Mọi người ngồi trong quán cũng chăm chú nghe có vẻ
kính trọng. Bà Hoa, mắt cũng thâm quầng, nhưng mặt tươi rói, đem đến một cái
tách, bỏ vào mấy lá trà và thêm một quả trám, Lão Thuyên chế nước sôi vào.
" Hiệu quả bảo đảm đấy! Đâu phải như các thứ khác. Ông cứ
nghĩ coi, đem về còn nóng hổi, ăn ngay tức thì." người có khuôn mặt khó
coi vẫn cứ oang oang.
Bà Hoa hết lời cám ơn hắn. "Đúng vậy đấy, nếu bác Khang đây không
giúp thì làm sao chúng tôi có thể..."
"Ăn ngay khi còn nóng hổi như thế, cam đoan thế nào cũng
khỏi, thế nào cũng khỏi. Bánh bao tẩm máu người như vậy, bệnh lao gì cũng khỏi!
"
Nghe nhắc đến " lao ", Bà Hoa hơi tái mặt, như bất chợt
không được vui, nhưng cũng gượng cười, rồi xin lỗi, bỏ đi. Tuy nhiên, ông
Khang đó vẫn không để ý, cứ tiếp tục cao giọng huyên thuyên, phòng bên cạnh,
thằng Thuyên đang nằm ngủ phải ho lên như phụ hoạ theo.
" Phải nói là thằng Thuyên nhà ông may phúc thật. Hắn sẽ khỏi
hẳn, chắc chắn rồi, thảo nào ông cười tươi thế.", người có râu hoa râm vừa
nói vừa đi tới gần ông Khang và hạ thấp giọng hỏi:" Tôi nghe nói tên tội
phạm mới bị xử hôm nay là con nhà họ Hạ, nhưng là đứa nào? Và chính xác là tội
gì?"
"Đứa nào à? Thì con trai mụ Tư Hạ chứ còn ai, cái thằng vô
lại đó."
Thấy mọi người chăm chú lắng nghe mình, ông Khang ưỡn ngực, mặt
thoả mãnphị ra, lớn tiếng nói: " Cái thằng vô tích sự đó không muốn sống
nữa, thế thôi.Trong vụ này, tôi chẳng lợi lộc gì, ngay bộ áo quần hắn mặc cũng
rơi vào tay viên quản lao rồi. Người may mắn nhất ở đây là lão Thuyên, người thứ
hai là cụ Hạ, cụ ẵm trọn khoản tiền thưởng, hai mươi lăm lạng bạc trắng như
tuyết, một mình hưởng trọn, chẳng phải chia cho ai một xu."
Thằng Thuyên từ phòng bên cạnh từ từ bước ra, hai tay khoanh trước
ngực, ho lấy ho để. Nó đi tới gần bếp, lấy một bát cơm nguội, chan nước nóng
vào và ngồi xuống ăn. Bà Hoa theo dõi nó, dịu dàng hỏi:" Thuyên, con
thấy đỡ hơn không? Con vẫn cứ hay đói bụng thế à?"
" Bảo đảm là sẽ khỏi! Bảo đảm là sẽ khỏi!"Ông Khang lén
nhìn thằng Thuyên, rồi quay sang nói với đám đông khách hàng: " Cụ Ba
thiệt là khôn lanh, giá như cụ không đi trình quan trước thì cụ đã bị chém cả
nhà, tài sản bị tịch thu sạch. Vậy mà bây giờ? Cụ có khối bạc! Còn thằng nhỏ
kia, đúng là thứ vô lại, ngay khi ở trong tù, hắn còn cố xui tay quản lao bạo
loạn nữa đó."
" Vậy sao, thật không tưởng tượng nổi", một anh chàng
trạc hai mươi tuổi, ngồi ở dãy bàn sau, tức giận nói.
" Các vị cũng nên nhớ rằng viên quản lao đã tới hỏi hắn để
thăm dò, nhưng nó lại tranh luận với ông ta. Hắn bảo ông là thiên hạ nhà Thanh
là tài sản chung của tất cả chúng ta. Nghĩ coi, nói vậy có phải lẽ không? Quản
lao biết rằng nhà hắn chỉ còn bà mẹ già, nhưng không bao giờ nghĩ là hắn nghèo
đến thế, chẳng moi được đồng xu nào, chừng đó đã giận lắm rồi. Thế mà tay kia
vượt quá giới hạn đi, ông mới cho ăn hai cái bạt tai."
" Quản lao là người giỏi võ, hai cái tát đó cũng đủ thấm đòn
rồi", ngườigù trong góc lên tiếng, có vẻ bất ngờ sảng khoái.
" Tên vô lại đâu có ngán đòn. Hắn còn nói thật tội nghiệp,
tội nghiệp."
" Tên đó bị sửa trị như thế là đúng rồi, chẳng có gì tội
nghiệp ", người có râu hoa râm nói.
Ông Khang nhìn chàng kia, vẻ khinh khỉnh và lạnh lùng đáp:
"Ông không hiểu ý tôi nói rồi. Theo cách mà tên kia nói, rõ ràng hắn muốn
nhắc đến quản lao khi nói tội nghiệp."
Những tia nhìn bỗng nhiên chùng xuống, cuộc thảo luận cũng ngừng.
Thằng Thuyên vừa ăn xong, mặt mũi đầy mồ hôi như có hơi toát ra.
" Quản lao tội nghiệp -- hoạ có điên mới nói vậy, phải tin là
hắn đã phát điên rồi", người có râu hoa râm nói, như bất chợt vỡ lẽ ra..
"Điên rồi đó ", chàng trai trạc hai mươi lặp lại, cũng
có vẻ như bỗng vỡ lẽ ra.
Không khí trong quán trà sôi nổi trở lại, mọi người lại đua nhau
nói nói cười cười. Thằng Thuyên nhân lúc ồn ào bật ho rũ rượi, ông Khang tới
gần vỗ vai nó nói:
" Bảo đảm sẽ khỏi thôi! Thuyên à, cháu sẽ không còn ho như
thế nữa. Bảo đảm sẽ khỏi!"
"Điên thật rồi!" Cậu Năm Gù gật đầu nói.
4.
Miếng đất nằm dọc tường thành bên ngoài cửa Tây vốn là đất công, ở
giữa có con đường mòn ngoằn nghoèo nhỏ hẹp, do những người muốn đi đường tắt
giẫm mãi lên mà thành, giờ nó lại biến thành cái mốc giới tự nhiên. Bên trái là
nơi chôn những người chết chém hoặc chết tù, bên phải là nghĩa địa của người
nghèo. Cả hai nơi, mộ chôn dày khít từng hàng, như bánh bao nhà giàu sắp lớp ngày
mừng thọ.
Lễ thanh minh năm ấy, trời lạnh bất thường, những cây liễu và cây
dương (3) chỉ mới đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo. Trời vừa rạng
sáng đã thấy bà Hoa đứng trước một ngôi mộ mới, phía bên phải con đường, bà bày
ra bốn dĩa thức ăn và một chén cơm, rồi khóc. Sau khi đốt vàng mã, bà ngồi bệt
xuống đất, thẫn thờ như đang chờ đợi cái gì, mà thực ra chính bà cũng không
biết nữa. Gió hiu hiu thổi vào mớ tóc ngắn của bà, tóc đã bạc nhiều đi từ năm
ngoái đến nay.
Một người đàn bà khác trên đường đi tới, cũng đầu bạc một nửa, áo
quần rách rưới, xách cái giỏ tròn nhỏ sơn đỏ đã cũ nát, phía ngoài giắt thếp
vàng mã, cứ đi tới ba bước lại dừng lại để thở. Chợt thấy bà Hoa ngồi dưới đất
đang nhìn mình, bà thoáng chút ngập ngừng, trên khuôn mặt xanh xao hiện rõ nét
xấu hổ. Rồi bà cũng lấy hết can đảm đi về phía ngôi mộ bên trái, đặt chiếc giỏ
xuống.
Ngôi mộ này và mộ của nhỏ Thuyên nằm cùng hàng, chỉ cách nhau con
đường mòn. Bà Hoa thấy bà già này đặt bốn dĩa thức ăn và chén cơm, rồi khóc một
hồi mới đốt vàng giấy, thì nghĩ thầm trong bụng: " Chắc cũng là con trai
bà nằm đấy rồi! " Bà kia nhìn quanh, bước vài bước, bỗng bật run lên,
loạng choạng đi thụt lùi, mắt trợn trừng, nhìn ngơ ngác mông lung.
Bà Hoa thấy thế, sợ bà kia thương con quá phát điên rồi, cầm lòng
không đậu, bà đứng dậy, sang bên kia đường, khẽ nói: " Bà ơi, thôi đừng
thương khóc chi nữa. Ta về đi thôi!"
Bà kia gật đầu, mắt vẫn nhìn trừng trừng rồi nói khẽ như đang thở
dài:
" Kìa, bà nhìn kìa, cái gì thế này?"
Bà Hoa nhìn về phía ngón tay chỉ, thấy nấm mộ trước mặt: cỏ chưa
phủ hết, lỗ chỗ còn thấy đất vàng khè, rất khó coi, nhìn kỹ phía trên, bất giác
giật mình: thấy rõ ràng một vòng hoa đỏ và trắng, nằm khoanh trên nấm mộ.
Cả hai bà, mắt đã loà từ lâu rồi, nhưng những bông hoa đỏ trắng này
thì trông rõ lắm. Hoa không nhiều, cũng không nổi bật lắm, nhưng được xếp thành
vòng tròn, ngay ngắn. Bà Hoa ngắm kỹ mộ con mình và những nấm mộ khác, chỉ
thấy rải rác vài nụ hoa bé tí, nhợt nhạt, vẫn chống chọi với giá lạnh, bà
chợt thấy lòng trống trải, thiếu vắng, không muốn tìm hiểu thêm. Bà kia tiến
thêm vài bước, nhìn kỹ dưới đất, như nói cho chính mình: " Chúng không có
gốc, không tự nở ở đây được. Vậy thì ai đến đây? Trẻ con đâu có đứa nào chơi ở
đây, bà con họ hàng cũng không đến sớm vậy... Thế là thế nào?"
Bà kia nghĩ đi nghĩ lại, bỗng bật lên khóc, nói lớn:
" Con ơi (4) , chúng vu oan cho con, và con không quên được,
đau lòng lắm, vậy giờ này đây con hiển hiện lên cho mẹ biết, được không con?"
Bà nhìn quanh, chỉ thấy có con quạ, đậu trên cây trụi lá, bà nói
tiếp:
" Mẹ biết rồi, con ơi... Chúng chôn sống con, nhưng ông trời có mắt, rồi một
ngày kia chúng sẽ trả giá, thôi nhắm mắt đi con, đừng bận lòng nữa con... nếu
con ở nơi đây, con nghe mẹ nói, báo cho mẹ biết đi con, con xui con quạ đến đậu
trên mộ con đi."
Gió đã dịu, ngọn cỏ khô dựng đứng, cứng như dây đồng, một giọng
rên rỉ vang lên trong không trung, nhỏ dần, nhỏ dần, rồi im bặt. Không khí vắng
lặng chết chóc. Đứng giữa đống cỏ khô, đầu ngẩng lên, hai người đàn bà nhìn con
quạ: nó vẫn đậu thẳng trên cành cây, rụt cổ vào, như đúc bằng đồng. Thời gian
qua, những người đi viếng mộ ngày càng thêm nhiều, đủ mọi lứa tuổi, họ đi ngang qua những nấm mộ, như những
bóng ma.
Bà Hoa cảm thấy như trút bỏ được một gánh nặng mà chính bà cũng
không giải thích được, bà bỗng muốn đi về nhà, nói với bà kia: " Thôi ta
về đi!" Bà kia thở ra, gom mấy dĩa thức ăn lại, vẻ uể oải, ngập ngừng một
lúc, rồi chậm rãi ra về, miệng vẫn lẩm bẩm: " Thế là thế nào
nhỉ?" ...
Cả hai mới đi chưa tới hai chục bước thì nghe có tiếng
"Oạ..." rất to từ phía sau. Họ kinh hoàng ngoảnh lại, chỉ là con quạ
thôi, nó xoè đôi cánh, nhún mình, lao vút như mũi tên, bay thẳng về phía chân
trời xa.
Tháng tư
1919.
__________________
(1) Pavillon des jours anciens. Từ khó dịch, tham khảo và dịch theo bản gốc:
古□亭口. ( Cổ ... đình khẩu ).
(2) Tức
là chữ "bát "八.
(3) Dịch
từ "les saules et les peupliers". Đúng ra phải là
cây dương liễu, như trong nguyên tác 杨柳 .
(4) Du
ơi. Dịch giả bản tiếng Pháp đã lược bỏ tên nhân vật ( Du ). Nguyên tác 瑜儿 ( Du nhi ) . Đây là tử tù được nói đến trong đoạn 3. ( Hạ Du
).
Có thể nghe
đọc bản tiếng Pháp ( le remède ) ở đây:
THÂN TRỌNG SƠN
dịch từ bản
tiếng Pháp