Tết năm đó, Nhự không về thăm nhà. Lý do thật dễ hiểu là còn nhà đâu nữa mà thăm. Di cư vào Nam, mẹ Nhự mướn một căn nhà nhỏ trong khu xóm lầy lội ở Sài gòn làm chỗ thờ bố Nhự, đó cũng là cái tổ ấm duy nhất của Nhự, trong suốt tuổi ấu thời. Nhự là con trai út, đứa con tội nghiệp nhất. Nhự mất cha từ hồi còn bốn tuổi, cũng cái tuổi này. Nhự mất cả quê hương. Các anh các chị lần lượt lấy vợ lấy chồng. Căn nhà quạnh hiu còn lại hai mẹ con, kế tới khi Nhự thi rớt, đi lính, đồn trú ở một tỉnh xa trên cao nguyên. Gần tết, nhận được thư nhà “Đẻ đã trả lại nhà cho bà Tư. Bàn thờ thầy để trên anh Thạch còn Đẻ thì nay đây mai đó cũng được, kỳ này giỗ thầy cứ Đẻ ở đâu thì cúng thầy ở đó, mâm sôi hay con gà thì dẫu Sàigòn hay Đà-lạt cũng được. Tết này Đẻ chưa định ở Sài gòn với anh Du hay lên Đà-lạt với anh Thạch, nhưng thôi, tết này mày đừng về nữa”. Nhự đọc thư mà muốn khóc. Mới đầu còn tưởng vì nhớ tới bà con xóm giềng, nhớ tới những con trai con gái đã cùng Nhự một thời lăn lộn trên đất, chơi đùa, đã cùng Nhự đánh đáo, u mọi, bắn bi, tạt lon. Nhớ tới sân cỏ, nhớ tới cây trứng cá, cái giếng. Nhưng càng ngày, Nhự càng cảm thấy một thất thoát khác, chua xót hơn, man mác mà dầy vò Nhự từng ngày từng đêm từng sớm từng chiều. Đó là chỗ trở về.
Nhự,
bỗng giật mình khi nghĩ đến một bất ngờ nào đó, thí dụ Nhự tử trận. Xác Nhự sẽ
đưa về đâu. Không lẽ đem về nhà anh rể ? Không lẽ đem về nhà chị dâu ? Hay nhẹ
nhàng hơn, suốt một năm có dăm ba ngày phép Nhự cũng chưa nghĩ ra mình sẽ đi đâu.
Về Sàigòn thăm anh rể hay lên Đà-lạt thăm chị dâu ? Nhự nghĩ hoài mà không có
câu trả lời.
Nhự
biết mình hơn ai hết. Như biết rằng với số tuổi mình, với kinh nghiệm mình có,
hơn nữa với thế đứng bèo bọt nổi trôi này làm sao dám nghĩ đến căn nhà của riêng,
làm sao dám nghĩ đến chuyện đón mẹ về ở. Giữa những thảng thốt đó, nhiều khi
trong cơn mê nào không rõ giật mình thức dậy, bỗng thấy mình nước mắt đầm đìa.
Nhự
vẫn nói với một vài thân hữu rằng không phải là đùa, cũng không phải là hứng bất
tử, nhưng xin tụi mày hiểu cho những u uất không tiện nói ra và chấp nhận giúp
cho tao một điều là nếu bất ngờ nào đó lỡ tao có chết, chỉ xin một điều là chết
đâu chôn đó.
Cơn
gió mùa lập đông trên cao nguyên lạnh se sắt da môi. Nhự bước ra ngoài bao quát
chung quanh cái sân Tiểu đoàn rộng mênh mông. Buổi chiều, nắng sắp tắt, doanh
trại buồn thiu. Tiểu đoàn hành quân đã ba lần tiếp tế. Ba lần tiếp tế là chín
ngày, cộng năm ngày trên lưng là mười bốn ngày. Mười bốn ngày Nhự sống như một
cái bóng. Cái bóng mờ nhạt của chuỗi ngày tác chiến cũ. Đó là thời của kiêu
hùng chữ nghĩa, của hào khí men rượu, của hai mươi tám trên ba mươi ngày một
tháng trong rừng. Khi đó, Nhự làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội tác chiến sống lay lắt
bên bờ rào các buôn ấp xa. Thường khi dành cho những bi đông rượu đế, cho những
con khô mực bằng ba ngón tay. Thường khi quay quắt, suốt ngày cho những nét bút
chì xanh đỏ trên chiếc bản đồ xa lạ. Những nét bút ngắn mà đi suốt một ngày
không tới. Cũng đôi khi, có khi được nằm một chỗ. Buồn bã suốt ngày, bất chợt bừng
mắt dậy nghĩ ngợi vu vơ. Nhự muốn lấy vợ, muốn đào ngũ, muốn khóc. Nhưng rồi
cũng quên đi khi nghĩ rằng đào ngũ là trốn tránh trách nhiệm, khóc hay cười
cũng chẳng giải quyết được gì, và lấy vợ, lấy vợ cũng tựa hồ như đeo thêm trên
lưng một cái ba-lô nữa, cái ba-lô quá nặng.
Đến
khi đi hành quân ở Daksieng, Nhự bị sốt rét. Điều trị tại bệnh xá hành quân ba
ngày, quá nặng phải chuyển về hậu cứ, tại đây Nhự nằm thêm mười tám ngày nữa.
Những con vi trùng sốt rét đã cho Nhự một thân thể xanh xao, thiếu máu. Nhưng
bù lại đã tặng cho Nhự một món quà khá hấp dẫn hơn là làm việc tại hậu cứ,
trong một công tác chưa bao giờ được ghi trong bảng cấp số. Sau khi xuất bệnh
xá trở về trình diện Tiểu đoàn, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng hỏi Nhự trước khi đi
lính cậu làm gì? Nhự nói và ông ta muốn xem giấy tờ chứng minh học lực. Nhự ngạc
nhiên nhưng vẫn đưa. Sau đó, những tờ giấy đã trói cuộc đời Nhự vào những vòng
quay khốn khó của cuộc sống, thì cũng chính nó được sử dụng để kèm bốn đứa con
ông Tiểu đoàn trưởng.
– Đây
là một công việc nhàn nhã, tôi sẽ chỉ thị cho ông Chỉ huy Hậu cứ để cậu khỏi
canh gác và cấp cho cậu một căn phòng riêng.
Nhự
cảm ơn và bắt đầu dạy. Bốn đứa con ông Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng là bốn trình độ,
bốn vẻ ngỗ nghịch khác nhau. Nhự là ông thầy tội nghiệp. Nhiều khi Nhự đã biến
thành một trò chơi đầy thú vị của đám trẻ Nhự không vừa ý chút nào về thế đứng
cũ và cũng không hài lòng chút nào về vị thế mới. Nhưng Nhự tin mãnh liệt rằng
cái chỗ đứng mình mong mỏi từ bấy lâu nay sắp tới. Đó là ngày nào cởi bỏ bộ đồ
lính lại cho chính phủ, trở về vùng đèo heo hút gió nào đó khai khẩn dăm ba chục
thước đất trồng rau nuôi gà sống cuộc đời bình dị. Nhự chỉ thấy mình được như vậy
trong những cơn mơ. Nhưng cơn mơ đó chỉ có sau một ngày băng rừng lội suối.
Nhiều
khi, Nhự cũng tự hỏi mình đang sống làm gì đây cái chuỗi ngày nhọc nhằn khốn đốn
bất biến này. Sống cô đơn và bi thảm như một con chó đói. Bất ngờ sao, Nhự quen
Thúy. Đó là cô giáο trường tiểu học tư rất tầm thường, Sau một vài lần gặp mặt
Nhự đường đột tỏ tình, Thúy rất bất ngờ khi chấp nhận tình yêu này. Thúy mời Nhự
lại nhà chơi cùng tiện dịp giới thiệu cùng gia đình. Nhự hoan hỉ nhận lời nhưng
không tới được vì lệnh hành quân quá đỗi bất ngờ. Nửa tháng sau, trở về thành
phố, Nhự bất kể dù còn rất dơ dáy, bất kể bụi bặm bám đầy mình, Nhự cũng chạy đến
Thúy ngay. Xin lỗi về chuyện hôm trước. Thúy không trách móc, chỉ kín đáo cho
Nhự biết hôm đó ngoài gia đình, Thúy còn mời thêm một số bạn nữa. Nhự rất ân hận
và xin chuộc tội bằng cách sẽ đến đón Thúy đi chơi vào tối hôm đó, sau khi tắm
rửa và thay quần áo xong. Tối đó, Nhự không tới vì cơn say đã hạ chàng tại ngay
trước cửa phòng chàng. Nhự mắc cỡ hết sức và toan sẽ không ra nhà Thúy nữa.
Nhưng Thúy là mẫu người dịu dàng. Thúy nói Thúy thương Nhự nhiều hơn yêu Nhự và
bầy tỏ một cách bóng bẩy rằng sẽ chờ Nhự, nếu Nhự nghĩ đến chuyện lâu dài. Nhự
xúc động tới muốn khóc. Không phải tại vì mới trải qua tình yêu đầu đời mà vì cảm
thấy như mình trở lại tuổi bé thơ, sống tự nhiên và thanh thản bên người chị đôn
hậu khoan dung. Nhự cũng không phải là người mơ mộng để tưởng mình là ông hoàng
con đi chơi gặp công chúa trong rừng. Nhự cho rằng chàng đã tới tuổi nói thẳng
với Thúy gia đình anh nghèo, rất nghèo. Anh chỉ có tình yêu cho em mà không còn
một đảm bảo nào. Nhự cũng không giấu Thúy chuyện nhà, không giấu cả những xích
mích nhỏ giữa chàng và gia đình. Khi Nhự nói, Nhự đã tính hoặc là sẽ yêu nhau
hơn, hoặc là sẽ rời xa. Vậy mà Thúy vẫn yêu Nhự. Thúy nói anh làm em yêu anh
hơn, yêu vì sự thành thật và cũng vì sự bất hạnh mà anh đã, đành phải gánh chịu.
Thúy
quả là một bà tiên đầy quyền phép. Vòng đai quyền lực của Thúy với Nhự mới đầu
chỉ như sợi tơ, dần dần đã nương vào sự vô tình của Nhự vòng đai trói buộc Nhự
mỗi lúc một chặt. Nhự vẫn tự nhủ lòng mình giữa trăm vạn vòng đai trá ngụy của
đời sống, chẳng thà chàng chọn vòng đai này.
Người
lính bước tới từ dẫy nhà đặt làm văn phòng, nhìn Nhự cười.
-
Không đi phố à ?
-
Hết tiền.
Người
lính cười khan ờ ờ rồi ngồi xuống thềm xi-măng, bảo Nhự ngồi xuống đây chơi. Mấy
cây khuynh điệp gió thổi lá rơi ào ào, Nhự lượm cành khuynh diệp phủi thềm, ngồi
xuống.
–
Ông bao nhiêu tuổi rồi hà ?
-
Hai mươi hai.
-
Tuổi con cọp hả ?
–
Không, con trâu.
-
Sao hai mươi hai ?
–
Bị cuối năm ta, đầu năm tây.
Người
lính gục gặc vậy ông thua tui mười hai tuổi. Nhự móc gói thuốc.
–
Vậy sao ? Vậy mời ông anh điếu thuốc.
–
Thôi, cái thứ này hành quân hút sướng hơn, về đây phải hút thuốc thơm, nhả khói
cho khoái lỗ mũi, có Ruby nè, hút không.
Nhự
cảm ơn không nhận, táy máy lại lượm hòn sỏi liệng ra sân. Đàn sẻ có cớ lượn lên
cao bay vòng rồi lại tụ họp trên nóc một mái nhà : Nhà Vĩnh Biệt. Mắt Nhự cũng
hoa lên và thấy đàn chim biến thành đàn quạ. Đàn quạ trên nóc nhà mồ.
–
Bao giờ lấy vợ, ông ?
–
Lấy vợ ?
-...
–
Chi vậy ?
Người
lính nhún vai, - để nó nấu cơm cho ăn, giặt đồ cho bận và chết có người khóc.
-
Chắc không
-
Sao không ?
Nhự
bật cười lớn :
- Dóc tổ cha ơi, ăn cơm trắng, bỏ đồ giặt mướn
không hơn sao ?
-
Mình cần là cần có người thương kia chớ, chết có người thương khóc.
–
Không tin, hay là có đứa cười ?
– Chồng chết mà cười, sao cười ?
–
Mình chết rồi, tiền ta người lấy, ruộng ta người cày, vợ ta người cuỗm không phải
là nó cười sao ?
Người
lính cười theo rồi đứng dậy ông nói chi bá láp không, thôi tui về.
-Ủa
về sao ?
Người
lính quay lại nhìn Nhự nheo mắt cười, bỏ ra ngoài cửa trại. Nhự còn ngồi nán lại
bên doanh trại buồn thiu. Heo hút mà mong được một chỗ trở về. Chỗ trở về dầu
được ăn cơm uống nước hàng ngày hay chỉ là chỗ trở về khi vĩnh cửu, khi thịt
nát xương tan.
Chiều
hai mươi sáu tết, bà Tiểu đoàn trưởng gọi Nhự vào hỏi chú có muốn về thăm nhà
và ăn tết thì tôi bảo ông Chỉ huy Hậu cứ cho chú mấy ngày.
Đây
là một đặc ân lớn cho những người tác chiến, Nhự không khỏi thấy cảm ơn sự đãi
ngộ của bà Tiểu đoàn trưởng.
Nhự
mang mang nghĩ tới mẹ, nghĩ tới các anh các chị, nghĩ đến ngày mai ngày giỗ
cha, nghĩ tới danh từ chú dành cho các người có chức vụ gọi kẻ thuộc quyền như
chú bồi chú bếp, chú tài xế, chú thầy giáo. Bất ngờ Nhự từ chối.
–
Chú điên à? Bà Tiểu đoàn trưởng kêu lên.
–
Thưa không, rồi Nhự trả lời vắn tắt và viện dẫn vài lý do tưởng tượng như muốn
thử ăn tết xứ lạ một lần xem sao, như thấy thích thành phố này, như mới đi
phép. Bà Tiểu đoàn trưởng bĩu môi, ờ cái đó tùy chú, nhưng tôi nói trước, không
vui đâu.
Nhự
cảm ơn, ra ngoài. Hôm đó dạy tụi nhỏ bài đức dục, Nhự muốn khóc khi giảng câu
“Phải yêu thương và kính mến cha mẹ, sống thì thăm hỏi chết thì cúng giỗ”. Đến
tám giờ, chiếc đồng hồ treo tường gõ một tràng dài những tiếng động khô. Nhự đứng
dậy bảo tụi nhỏ dẹp tập. Tụi nhỏ ồn ào mai có học không chú ?
-
Sao không ?
-
Mốt ?
–
Có.
-
Vậy ba mươi, mồng một ?
–
Có.
Nhự
cười chua chát tiếp, lính tráng mà, đâu có thằng lính nào nghỉ ngày tết đâu. Nhự
nhìn đám nhỏ đang ngơ ngác rồi bật cười, nói vậy chớ mai nữa rồi nghỉ. Đám trẻ
reo vui trong khi Nhự dời nhà ra lộ đón xe đi phố. Đến Thúy khi Thúy đang làm mứt.
Gọi Thúy ra một góc vườn, Mai em đi chợ mua cho anh một thẻ hương, hai ngọn nến
và nải chuối. Đem vào trại cho anh vào buổi sáng.
–
Chi vậy ?
-
Em sẽ biết sau.
Đêm
đó, Nhự, thức đến khuya thu xếp tất cả những thứ gì lộn xộn vào cái va-ly. Cái
bàn ọp ẹp bằng gỗ pháo binh được lau chùi lại, và kê vào chỗ trang trọng nhất
trong phòng. Trải bàn bằng tờ nhật báo. Nhự tìm trong ví tấm ảnh nhầu nát của
người cha già, dán trên bìa sau tấm lịch, rồi treo lên. Cái ly cũng được lau
chùi đựng gạo để cắm nhang. Khi ngủ, Nhự nằm mơ thấy mình đi trên những con đường
ngút ngàn, vừa đi vừa té mà đi hoài không tới. Hình như hai bên bờ mọc toàn cây
khuynh diệp, những cây khuynh diệp lá sắc như dao, những con dao làm Nhự trầy
da xướt máu tay chân. Nhự mơ hồ thấy có đi ngang sông, có đi ngang đèo mà không
rõ mình định đi dâu.
Thức
dậy, Thúy đến, nụ cười đầu ngày rạng rỡ. Nhự mở cửa phòng nói với Thúy đây là lần
giỗ thứ mười bẩy của thầy anh, và là lần đầu tiên đứa con trai út giỗ bố. Nhự
mang mang nghĩ đến mẹ. Người đàn bà gian khổ đó bây giờ ở một phương trời nào
đó hẳn vừa cúng xong tuần nước trà đầu tiên. Thúy hỏi sao mắt anh đỏ vậy ? Nhự
giật mình.
-
Em vào đây.
Nhự
lục giỏ ra nải chuối, hai ngọn nến và thẻ hương. Bầy trên bàn thờ. Nhự chỉ biết
lễ mà không biết khấn. Rồi quay lại Thúy.
-
Lần đầu tiên trong đời anh tự tổ chức một bàn thờ, lần đầu tiên anh giỗ cha,
vui sao lại có em.
Nhự
xúc động cứng lời. Khựng lại rồi hôn Thúy. Nụ hôn kéo dài như hứa hẹn mai sau,
Mai sau thì vốn mịt mùng sương khói. Tới khi có bước chân người tới Thúy mới đẩy
Nhự ra, bỏ xuống dưới nhà. Viên sĩ quan bước vào phòng.
–
Làm gì đó mày ?
Nhự
lắc đầu không nói. Viên sĩ quan bước tới gần. Con Cá nào khá quá vậy mày ?
-
Không.
–
Không C. Tính sài riêng sao ? Cho anh em ké với chớ ?
-
Χin lỗi Thiếu úy, tôi nόi chuyện νới Thiếu úy đàng hoàng mà Thiếu úy mày tao với
ai ? và Thiếu úy nói C. với ai ?
Cơn
nóng làm Nhự đứng dậy: “Tôi cấm Thiếu úy xưng hô mày tao với tôi, nếu không tôi
sẽ dùng danh từ này với Thiếu úy”.
Thúy
cũng vừa chạy lên gì đó anh. Viên sĩ quan trố mắt nhìn Thúy bất chợt quay lại
Nhự.
–
Yêu cầu anh nói chuyện nhã nhặn lại. Tôi là Sĩ quan An ninh của Tiểu đoàn này.
Ai cho phép anh đem gái vào trại ? Tôi đủ quyền hạn giam anh vào chuồng cọp.
Cái dành cho hạ sĩ quan νô lễ.
Nhự
cười nhạt.
-
Tôi chờ hình phạt của Thiếu úy, và chờ nghe quyết định của Thiếu tá về trường hợp
một sĩ quan có lối nói nham nhở mất dạy với vợ lính như Thiếu úy.
Viên
sĩ quan bỏ ra ngoài, mặt hầm hầm, tao sẽ trình Thiếu tá vụ này. Đ.m, đừng có cậy
thế. Nhự nói vọng theo thưa Thiếu úy tôi chờ.
Những
ngày sau đó Nhự luôn bị sự dòm ngó và trả thù nhỏ mọn của Sĩ quan An ninh. Kẹt
cho hắn là Nhự tuy trẻ nhưng không phải thuộc loại ham chơi cà chớn. Hơn nữa,
Nhự lại là nhân viên riêng và tín cẩn của ông Tiểu đoàn trưởng. Mà những kẻ hà
hiếp cấp dưới lại là những kẻ khiếp hãi cấp trên. Sáng mồng một, Tiểu đoàn tập
họp nghe thông điệp của vị nguyên thủ quốc gia và nhật lệnh đơn vị trưởng. Tiểu
đoàn cấm trại và ứng chiến cho thị xã, ông Tiểu đoàn trưởng nhấn mạnh, tập họp
bất thần vắng mặt sẽ bị nghiêm phạt. Trừ ông Trung Sĩ Nhự có công tác riêng. Nhự
được mời về nhà ông Tiểu đoàn trưởng “ăn tết với các cháu cho vui”. Nhự thầm
cám ơn sự trọng đãi của ông Tiểu đoàn trưởng cho Nhự - Kẻ bất đắc chí về học vấn
đã phùng thời về cái mình hèn kém – Nhưng lễ phép từ chối sau khi theo xe của
ông ta ra nhà chúc tết. Nhự mừng tuổi bốn đứa nhỏ mỗi đứa một tờ hai chục mới
tinh. Nhự cũng được vợ chồng Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng lì xì khá trọng hậu so với
số tiền Nhự mừng tuổi tụi nhỏ. Nhự dự tính sẽ mua cho Thúy một món quà, thật ngạc
nhiên vào dịp đầu năm mới.
Nhự
bỗng bàng hoàng thức dậy vì những tiếng la lớn quanh mình. Bóng tối kín như
bưng. Có tiếng la lớn pháo kích, pháo kích. Nhự xô đống chăn màn qua một phía,
chụp vội khẩu súng bước ra cửa. Tiếng nổ lớn đập mạnh vào tai. Nhự ù tai và té
xuống.
Khi
tỉnh dậy thấy chân tay mình trắng xóa. Cuối giường đứa con gái đang ngồi gọt
trái cam.
–
Thúy.
Thúy
quay lại nhìn Nhự mỉm cười tỉnh rồi hả.
Nhự
cử động thử tay chân và nhắm mắt coi mình đau đớn ở đâu, chỉ thấy rêm rêm nhức
nhức ở bắp đùi bên trái.
–
Anh sao đó Thúy.
–
Mảnh đạn vào đùi và trầy trụa sơ sơ.
–
Nặng không ?
-
Năm mươi hai ký. Thúy cười, anh bị xoàng thôi mà làm em hết hồn.
—
Hết hồn sao ?
–
Anh Dị ra báo tin anh bị pháo kích nằm Quân Y Viện. Mợ bảo em vào xem ngay. Sợ
anh có bề gì.
Sự
tỉnh táo và không quá đau nhức cho Nhự biết tình trạng mình không nguy hiểm. Có
lẽ chàng bị bất tỉnh vì đứng quá gần chỗ viên đạn rơi xuống. Bất tỉnh vì tiếng
động mạnh.
–
Anh đưa cho em cái địa chỉ để đánh điện về nhà cho… bác lên thăm.
Nhự
lúng búng miếng cam trong miệng im lặng, và lắc đầu
–
Không biết chỗ nào mẹ ở mà đánh điện về.
–
Anh không có chỗ nào để trở về sao ?
Nhự
nuốt trửng miếng cam, lắc đầu.
– Ờ,
mà có chứ.
-
Đâu?
- Ở
một khu vườn có trồng trăm thứ cây ăn trái, có hồ nuôi cá, có thân yêu, có ruột
thịt, có tất cả những gì trên đời người ta cho là hạnh phúc. Với chuỗi ngày chỉ
có hưởng nhàn, có sách, có kẻ lông mày cho ái thê. Là em đó, Thúy.
Nhự
chống tay lên giường ngồi dậy. Toan choàng vai Thúy. Bỗng vết thương nhói đau
làm chàng ngã xuống lại và lịm đi. Trong tiếng khóc của Thúy, Nhự mơ hồ thấy những
đợt sóng biển, những dợn mây bay, thấy yêu dấu, thấy hạnh phúc. Thấy trong tầm
tay của mình cả mảnh đất trở về. Chỗ trở về mơ ước, cầu khấn hoàn hoài trên cái
đất lạ quê người mà Nhự trôi dạt bấy lâu nay.
Nguyễn
Minh Nữu
(MỘT THOÁNG MÂY
PHIÊU BẠT là truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Minh Nữu, đăng trên tạp chí
VĂN – Sài Gòn, 1971)