Robert Barr sinh
năm 1849 tại Glasgow, Scotland. Gia đình di cư sang Canada khi ông mới lên bốn. Lớn lên
và học tập tại Toronto, ông
khởi nghiệp bằng nghề dạy học. Trong thời gian làm giáo viên rồi hiệu trưởng tại
Ontario, ông
bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tiên, gởi đăng báo Detroit Free Press.
Năm 1876, ông từ bỏ ngành giáo dục và chính thức sống với
nghề cầm bút. Ông thăng tiến nhanh đến vị trí trong ban biên tập tờ báo nói trên.
Từ năm 1881, Robert Barr sang Luân Đôn phụ trách ấn bản
tuần san của báo, giảm bớt tính chất thông tin mà nghiêng về văn hoá, giải trí,
được độc giả hoan nghênh.
Năm 1892, ông thành lập tờ Idler, ban đầu cộng tác với nhà viết
kịch Jerome Klapka Jerome,
sau trở thành chủ biên duy nhất. Có thể gọi tờ này là một nguyệt san văn hoá nghệ
thuật, nội dung bao gồm những bài phỏng vấn, bút ký lữ hành, tường thuật và phê
bình những sinh hoạt kịch nghệ, thể thao... và đáng chú ý nhất là truyện ngắn và
tiểu thuyết ( đăng dưới dạng feuilleton
) của các nhà văn đã và sẽ nổi tiếng: Stephen Crane, Mark Twain, Arthur Conan Doyle, Sara
Jeannette Duncan, và của chính Robert Barr.
Khi những truyện về thám tử Sherlock Holmes của Conan Doyle bắt đầu nổi tiếng thì Robert
Barr tung ra cuốn nhại theo với nhan đề "The Adventures of Sherlow Kolms" ( năm
1892 ), và hơn 10 năm sau, thêm một cuốn nữa: "The Adventure of the Second Swag " ( năm
1904 ). Và như thế, trong toàn bộ tác phẩm của Robert Barr, có một loạt những truyện
ngắn trinh thám, hình sự, thể loại đang thịnh hành lúc này. Điều đáng nói là ngay
Conan Doyle cũng
có lời khen Barr về những truyện này.
Ngoài một số vở kịch và truyện châm biếm, Robert Barr viết hơn 20 tiểu thuyết, đề
tài từ những trải nghiệm cá nhân những năm sống tại Canada, những cuốn thường được nhắc
tới là " The victors
", " In the midst of alarms", " The triumphs of Eugene
Valmont".
Robert Barr qua
đời ngày 21/10/1912 vì bệnh
tim tại nhà riêng ở Luân Đôn.
Robert Barr ( 1849-1912 )
Trong một số bản chất con người, không có sắc thái nửa
vời, chẳng có gì ngoài những màu thô cơ bản. John Bodman là người lúc nào cũng
thiên về thái cực này hoặc thái cực khác. Điều đó có lẽ sẽ bớt đi ý nghĩa nếu anh ta không cưới một cô vợ có bản
tính giống hệt mình.
Không nghi ngờ gì rằng trên thế giới chính xác là có một
người phụ nữ phù hợp cho bất cứ người đàn ông nào lấy làm vợ, và ngược lại. Nhưng
khi ta tính đến chuyện một người có cơ hội làm quen với chỉ vài trăm người, và trong
số vài trăm người đó, có chừng trên dưới một tá anh ta biết rõ, rồi trong số một
tá đó lại mới có cùng lắm là một hay hai người bạn, điều dễ nhận thấy là, khi
ta nhớ đến con số hàng triệu người sống trên thế giới, thì hầu như chắc chắn rằng,
kể từ khi trái đất được tạo lập, những người đàn ông và phụ nữ hợp với nhau vẫn
chưa hề gặp được nhau. Mọi cơ may toán học đều chống lại cuộc gặp gỡ kiểu đó, và
đấy là lý do các toà án ly hôn tồn tại. Hôn nhân, trong điều kiện tốt nhất, chỉ
là sự thoả hiệp, và nếu hai người đã gắn kết với nhau mà có tính cách không thể
thoả hiệp được thì rắc rối đấy!
Trong đời sống của hai người trẻ tuổi này không có khoảng
cách nào. Kết quả đương nhiên là hoặc yêu hoặc ghét, và trong trường hợp ông và
bà Bodman thì đó là ghét, theo kiểu quyết liệt và ngạo mạn nhất.
Ở nhiều khu vực trên thế giới, tính khí xung khắc được
xem như một lý do chính đáng để đòi được ly hôn, nhưng ở Anh thì không có sự khác
biệt tế nhị như thế, bởi vậy, cho đến khi người vợ phạm tội, hoặc ông chồng vừa
phạm tội vừa độc ác thì cả hai người này vẫn cứ gắn kết bằng một mối ràng buộc
mà chỉ cái chết mới tách rời được. Không có gì tệ hại hơn tình trạng này, và vấn
đề càng trở nên vô vọng hơn bởi thực tế là cuộcsống củabà Bodman không có gì để
chê trách, còn chồng bà thì chẳng những không xấu hơn mà là tốt hơn phần đông đàn
ông nữa. Tuy nhiên, có lẽ nhận định này chỉ đúng tới một điểm nào đó thôi bởi
John Bodman đã tỏ ra quyết tâm dứt bỏ vợ mình cho dù nguy hiểm tới đâu. Nếu anh
ta nghèo, hẳn là anh ta đã bỏ vợ rồi, nhưng anh lại giàu, và con người không dễ
gì từ bỏ việc kinh doanh đang phát đạt chỉ vì đời sống gia đình không hạnh phúc.
Khi tâm trí một người tập trung quá vào một vấn đề nào đó,
không ai có thể nói anh ta sẽ đi xa tới đâu. Tâm trí là một công cụ tế nhị và ngay
cả luật pháp cũng thừa nhận là nó dễ bị đẩy ra khỏi thế cân bằng. Bạn bè của
Bodman - anh ta cũng có bạn chứ - đều quả quyết là đầu óc anh ta rối lên rồi,
nhưng bạn bè cũng như kẻ thù của anh không ai nghi ngờ về tính xác thực của sự kiện
vốn là đáng ngại nhất nay đã chuyển thành sự kiện quan trọng nhất trong đời anh
ta. Không bao giờ biết được John Bodman tỉnh táo hay điên rồ khi anh quyết định
sẽ giết vợ, nhưng rõ ràng là anh đã
nghĩ tới những phương thức đầy mánh khoé cốt để làm cho tội ác có vẻ như chỉ là
hậu quả một vụ tai nạn. Song le, sự xảo quyệt vẫn thường là tính cách của một tâm
trí lầm lạc.
Bà Bodman biết rõ sự hiện diện của mình làm chồng khổ sở
tới mức nào, nhưng bản tính cô cũng tàn nhẫn như anh ấy vậy, và cô căm ghét anh
ta nếu có thể còn gay gắt hơn là anh ta căm ghét cô. Anh ta đi đâu cô cũng đi
theo và có lẽ ý tưởng giết người sẽ không nảy sinh trong đầu anh ta nếu cô không
dai dẳng cố tình xuất hiện bên cạnh anh mọi lúc mọi nơi. Bởi thế, khi anh ta báo
cho cô biết anh định sẽ sang Thuỵ sĩ hết cả tháng bảy, cô không nói gì nhưng cũng
chuẩn bị các thứ cho chuyến đi. Lần này anh không phản đối như mọi khi, thế là
đôi vợ chồng câm lặng cùng lên đường đi Thuỵ sĩ.
Đấy là một khách sạn gần đỉnh núi nằm trên một mỏm đất
nhô ra bên trên một trong những sông băng
hùng vĩ. Nó cao hơn mực nước biển một dặm rưỡi (1), nằm trơ trọi và được dẫn tới
bởi một con đường hiểm trở dài 6 dặm (2) chạy ngoằn ngoèo lên núi. Từ những hàng
hiên của khách sạn có thể nhìn thấy một quang cảnh ngoạn mục, những chóp núi phủ
đầy tuyết và những sông băng. Còn ở khu
vực cạnh đó thì có nhiều lối đi tuyệt đẹp dẫn tới những điểm ít nhiều
nguy hiểm.
John Bodman biết rõ khách sạn này, vào thời kỳ còn hạnh
phúc, anh đã quen thuộc lắm với vùng lân cận. Bây giờ, khi ý nghĩ giết người nảy
sinh trong đầu, có một vị trí cách chỗ trọ hai dặm thường xuyên ám ảnh anh. Đấy
là một điểm nhìn bao quát mọi nơi, chỗ tận cùng được một bức tường thấp đổ nát
che khuất. Một sáng kia, anh thức dậy lúc 4 giờ, lẻn ra ngoài khách sạn không để
ai nhìn thấy và đi đến vị trí này, dân địa phương gọi là Chóp đỉnh Cheo leo. Trí
nhớ vẫn trung thành với anh ta. Đúng là vị trí này, anh tự nhủ. Ngọn núi nhô lên
phía sau nó thật hoang vu và dựng đứng. Không có dân cư ở gần đó để nhìn thấy nơi
này. Khách sạn ở phía xa, khuất sau một mỏm đá. Những ngọn núi phía bên kia
thung lũng cách nơi này quá xa khiến không có du khách tình cờ hay dân địa phương
nào có thể nhìn thấy chuyện gì xảy ra tại Chóp đỉnh Cheo leo. Phía thung lũng
thấp nơi xa kia chỉ có một thị trấn duy nhất trông giống như bộ sưu tập những
ngôi nhà đồ chơi nhỏ xíu.
Chỉ cần liếc nhìn qua rìa bức tường đổ nát thường là đã
đủ cho một du khách cho dù có thần kinh vững vàng nhất. Từ đây xuống bên dưới là
một dốc dựng đứng hơn một dặm và dưới đáy xa xa là những tảng đá lởm chởm và đám
cây còi cọc nhìn qua mây mù u tối tưởng như những bụi cây.
"Địa điểm là nơi này rồi", anh tự nhủ, "
và thời điểm là ngày mai."
John Badman hoạch định tội ác của mình dứt khoát, tàn
nhẫn và điềm tĩnh, như đã từng trù liệu một thoả thuận ở Sở Giao dịch Chứng khoán.
Trong tâm trí anh ta không hề có một ý nghĩ khoan dung đối với kẻ nạn nhân của
mình vốn vẫn không hay biết gì. Sự căm ghét đã kéo anh ta đi xa.
Sáng hôm sau, ăn điểm tâm xong, anh bảo vợ: " Anh định
đi bộ lên núi. Em có đi cùng anh không?"
-
Có, cô ta trả lời ngắn gọn.
-
Tốt lắm, anh nói. Vậy thì anh sẽ sẵn sàng lúc
9 giờ.
-
Em sẽ sẵn sàng lúc 9 giờ, cô ta nhắc lại lời
anh.
Đúng giờ đó, cả hai rời khách sạn, nơi anh định sẽ sớm
trở về một mình sau đó. Trên đường đi tới Chóp đỉnh Cheo leo, hai người không nói
với nhau lời nào. Con đường mòn gần như bằng phẳng, chạy vòng quanh những ngọn
núi, vì Chóp đỉnh Cheo leo, so với khách sạn, cũng không cao hơn mực nước biển
lắm.
John Badman chưa vạch ra kế hoạch cụ thể cho công việc
của mình khi đã tới địa điểm. Anh quyết định cứ để hoàn cảnh đẩy đưa. Có lúc
trong tâm trí anh nảy ramột nỗi sợ lạ lùng là cô ta sẽ bám lấy anh và có thể sẽ
kéo anh cùng rơi xuống vực. Anh cảm thấy mình đang thắc mắc không hiểu cô ta có
tiên đoán về số phận của mình không, và một trong những lý do khiến anh không nói
chuyện là sợ rằng giọng anh run có thể làm cô ta nghi ngờ. Anh quyết định sẽ hành
động dứt khoát và bất ngờ, làm sao để cô ta không có cơ may thoát được hoặc kéo
anh cùng rơi với cô. Cô có la to nơi chỗ vắng vẻ này anh cũng không ngại. Không
ai tới được nơi này nếu không xuất phát từ khách sạn, và sáng hôm nay, không người
nào ra khỏi nhà, kể cả để đi thám hiểm sông băng, là một trong những chuyến đi
dễ dàng và phổ biến nhất từ nơi đó.
Thật kỳ lạ, khi họ đến khu vực có thể nhìn thấy Chóp đỉnh
Cheo leo, bà Bodman dừng lại và rùng mình. Bodman nhìn cô ta xuyên qua khe hở nhỏ
của đôi mắt bịt kín và lại thầm hỏi liệu cô ta có nghi ngờ gì không. Khi hai người
cùng đi bộ gần bên nhau, không ai có thể biết họ có thể liên lạc vô thức với
nhau như thế nào.
" Có chuyện gì vậy? ", anh hỏi thô lỗ, "
em mệt sao? "
" John", cô kêu lên, giọng thở hổn hển, từ bao
nhiêu năm nay lần đầu tiên cô gọi anh bằng tên thánh. " Anh có nghĩ là nếu
ngay từ đầu anh tử tế hơn với em thì mọi chuyện có thể khác không? "
" Anh có cảm tưởng là", anh ta trả lời mà không
nhìn cô, "đến ngày này thì đã khá trễ để thảo luận về vấn đề đó."
" Em hối hận nhiều chuyện lắm", cô nói, giọng
run run, " anh có vậy không?"
" Không", anh ta đáp.
" Vậy thì tốt", cô vợ nói, giọng cứng rắn trở
lại. " Em chỉ muốn cho anh một cơ hội. Anh nhớ đấy!"
Người chồng nghi hoặc nhìn cô.
" Em nói vậy nghĩa là sao? ", anh hỏi. "
Cho anh một cơ hội? Anh chẳng cần
cơ hội, hay bất cứ thứ gì khác từ nơi
em. Đàn ông không nhận gì hết từ người mình căm ghét. Anh nghĩ thế nào về em thì
chắc là em không lạ gì. Chúng ta đã ràng buộc với nhau và em đã cố sức làm cho
sự ràng buộc đó không thể chịu đựng được."
" Vâng", cô ta trả lời, mắt nhìn xuống đất,
" chúng ta ràng buộc với nhau, chúng ta ràng buộc với nhau", cô ta thì
thầm lặp lại những từ đó trong khi họ đi những bước cuối cùng đến Chóp đỉnh
Cheo leo. Badman ngồi xuốngbức tường đổ. Người phụ nữ thả cây gậy leo núi xuống
tảng đá và bực dọc đi tới đi lui, tay siết chặt lại rồi lại thả ra. Người chồng
nín thở khi khoảnh khắc kinh khủng đến gần.
" Tại sao cô cứ đi như một con thú hoang vậy?"
anh hét lên. "Đến đây ngồi cạnh tôi và ở yên đấy!"
Cô đối mặt anh với ánh mắt anh chưa từng nhìn thấy, ánh
mắt của sự mất trí và căm ghét.
" Tôi đi như con thú hoang, cô nói, vì chính tôi là
thú hoang đây. Hồi nãy anh có nói anh căm ghét tôi, nhưng anh là đàn ông, lòng
căm ghét của anh chẳng là gì cả đối với tôi. Anh vốn xấu xa, anh muốn phá vỡ mối
dây ràng buộc chúng ta, nhưng vẫn còn nhiều thứ tôi biết là anh không thể hạ mình
để làm. Tôi biết trong tim anh không có ý nghĩ giết người, nhưng trong tim tôi
thì có đấy. Bodman, tôi sẽ cho anh thấy tôi căm ghét anh tới mức nào"
Người đàn ông hoảng hốt chụp lấy cục đá bên cạnh và bỗng
giật mình tội lỗi khi nghe cô ta nói chuyện giết người.
" Vâng ", cô tiếp tục, " tôi đã báo cho
tất cả các bạn của tôi ở Anh là tôi tin rằng anh muốn giết tôi ở Thuỵ Sĩ.
" Trời ơi! Trời ơi! " anh la lên, " sao
cô lại có thể nói chuyện như thế!"
" Tôi nói thế để chứng tỏ tôi căm ghét anh đến mức
nào, tôi đã chuẩn bị để trả thù như thế nào. Tôi đã báo cho những người ở khách
sạn và khi chúng ta ra đi, có hai người đi theo chúng ta. Ông chủ khách sạn cố thuyết
phục tôi đừng đi với anh. Chỉ lát nữa thôi hai người kia sẽ đến chóp đỉnh này.
Hãy nói với họ, nếu anh nghĩ là họ tin anh, rằng đây chỉ là một tai nạn.
Người phụ nữ điên loạn xé nát những mảnh ren từ thân trước
áo đầm và rải tung ra xung quanh. Bodman đứng dậy kêu thét lên: " Cô làm gì
vậy?" Nhưng trước khi anh có thể tiến tới gần thì cô ta đã lao mình vào bức
tường và hét lên khi xoay tròn rơi xuống đáy vực.
Ngay sau đó hai người đàn ông vội vàng chạy đến rìa tảng
đá và nhìn thấy người chồng đứng một mình ở đó.
Ngay cả trong lúc bối rối anh ta vẫn nhận ra rằng nếu
anh ta nói ra sự thật thì cũng chẳng ai tin.
______________
(1)
khoảng
2 500 m.
(2)
khoảng
10 km.
THÂN
TRỌNG SƠN
dịch từ nguyên bản tiếng Anh.