Tôi
ở New York, không có cộng đồng người Việt, nói gì tới sinh hoạt văn nghệ, hoàn
toàn cô lập với thế giới sách báo chữ nghĩa. Năm 1998, một người bạn của má tôi
ở California gởi mấy món đồ ăn gói bằng giấy báo Người Việt. Tôi ghiền đọc tiếng
Việt nên kéo mấy trang báo cho thẳng để đọc và sửng sốt thấy Phân ưu cho nhà
văn Mai Thảo từ “Nguyễn Xuân Hoàng và tạp chí Văn”, thứ nhất là vì tin buồn về
một nhà văn tôi vẫn ái mộ, hai là vì ngạc nhiên không ngờ Văn tục bản ở hải ngoại.
Tôi liên lạc với nhật báo Người Việt để hỏi thông tin về nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng, email cho ông để đặt mua báo. Gia đình tôi cất giữ lại và mang theo khá
nhiều số Văn cũ trước 1975 nên tôi có dịp trò chuyện với ông về những bài cũ và
chúng tôi bắt đầu mối quan hệ vong niên rất văn nghệ. Trong một số Văn mới có một
bài viết làm tôi chú ý, tôi viết một email dài phân tích và nhận xét về bài đó,
ông Hoàng có vẻ rất thích thú, ông gọi cho tôi, bảo “Ngọc viết văn chắc được lắm,
viết thử cái gì đi”. Từ chỗ “viết thử cái gì đi” tôi bắt đầu có bài đăng gần
như mỗi số. Sau một thời gian, thấy tôi siêng đọc báo chí ngoại quốc, ông bảo
tôi kiêm luôn mục "Văn nghệ thế giới”. Lúc đó còn độc thân rảnh rang, đang
đi residency trong bệnh viện, ở chung với ba má, tôi hết giờ về chỉ ăn rồi đọc
sách chuyên môn, còn thì viết văn. Cũng qua Văn tôi “tái ngộ” nhà văn Song
Thao, cây bút tôi ái mộ nhất trong bộ Thời Nay gia đình. Nhà báo Bùi Bảo Trúc
tôi được quen từ trước cũng nhờ một cơ duyên văn chương. Ông Hoàng có ý muốn giới
thiệu tôi quen biết với các văn nghệ sĩ khác, nhưng tôi nghĩ phận con cháu đâu
dám leo trèo ngồi chung chiếu với các vị trưởng thượng, nên chỉ giới hạn liên lạc
với ba vị mà thôi.
Sau
khi lấy chồng, sinh con gái đầu lòng, đi làm chính thức sau fellowship, tôi cố
gắng duy trì việc viết lách một thời gian rồi bỏ cuộc. Văn đình bản ít lâu sau
đó. Tôi rất buồn và tiếc nhưng nghĩ đó cũng là một tất yếu trong tình hình “văn
chương hạ giới rẻ như bèo”, người viết vẫn đầy tâm huyết nhưng độc giả rơi rụng
dần, tôi có cảm tưởng chỉ còn người viết chúng tôi đọc lẫn nhau. Bù đầu với
công việc giảng dạy và nghiên cứu trong bệnh viện đại học, đi làm về phải soạn
bài, viết đề án, đọc tài liệu, hộp thư của tôi đầy nhóc email từ học trò, đồng
nghiệp, bộ môn, phòng nghiên cứu khoa học, chẳng còn thì giờ tán dóc chuyện văn
chương như xưa. Ông Hoàng và ông Trúc biết vậy nên chỉ liên lạc tôi khi cần tài
liệu quá kẹt kiếm không ra, tôi lâu lâu gửi một cái thư chúc Tết và chỉ liên hệ
nhà văn Song Thao khi ông ra một cuốn sách mới.
Thời
gian qua mau, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng mắc bạo bệnh và mất, may mà tôi còn gặp
được ông lần cuối. Rồi con gái lớn vào lớp honors ở middle school bài vở quá nặng,
tôi bỏ bệnh viện đại học về làm bệnh viện tư gần nhà, ít giờ hơn, đi làm về chỉ
kèm con học, lo cơm nước và xem TV. Tôi nghĩ đến ông Trúc đã lâu không liên lạc,
định sau khi con gái thi midterm xong sẽ gọi hỏi thăm, thì bất ngờ được tin ông
mất đột ngột vào một ngày cuối năm. Những ngày sau đó, tôi hụt hẫng vô cùng, cứ
nghĩ về những cái “phải chi”. Vòng đời cứ quay, không chờ đợi những lời thất hứa,
những lần lỗi hẹn.
Tháng
bảy năm nay tôi đi nghỉ hè ở Quebec City, ghé Montreal hai ngày và gặp được nhà
văn Song Thao. Ông nói chuyện văn chương rất vui và xui tôi viết lại, tôi cười
trừ. Ông không tha, đăng một truyện cũ của tôi đã in trên Văn lên facebook và dần
dần tôi bị lôi cuốn vào cái thế giới vui vui của các tác giả cho sáng tác của
mình lên facebook ở thời đại mà các tạp chí văn chương nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng gọi là “sân chơi chữ nghĩa” đã đi vào dĩ vãng. Hồi trước phải chờ báo tới
bằng bưu điện, bây giờ sáng dậy mở facebook có thơ văn đọc tha hồ. Danh sách “bạn”
của tôi có thêm tên một số nhà văn nhà thơ. Vì còn giữ một số tạp chí cũ, tôi bắt
đầu gửi lại những tác giả Sài Gòn xưa sáng tác của họ đã thất truyền vì thời cuộc
và chiến dịch “biệt kích văn nghệ”, “kiểm kê văn hoá”. Qua các hoạt động này,
nhà văn Nguyễn Minh Nữu chú ý và request trên facebook tôi. Tôi biết tên tuổi
ông đã lâu, hồi nhà báo Bùi Bảo Trúc còn ở Virginia có gợi ý muốn giới thiệu
tôi với ông và một số văn nghệ sĩ vùng DC, tôi nhát nên thoái thác. Nay thấy
tên ông tôi accept ngay. Sau đó tôi sực nhớ một truyện ngắn của ông trên Văn
Tân Niên 1973 nên scan cho lên facebook. Ông rất vui mừng vì đó là truyện đầu
tay của ông trên Văn và chúng tôi trò chuyện đôi chút qua messenger. Tưởng chỉ
có vậy, nhưng tôi tình cờ thấy trên facebook của ông có hình chị của ông từ Việt
Nam sang chơi, nhìn rất giống cô giáo thân yêu dạy tôi môn Văn lớp 12 là cô
Nguyễn thị Bội Cẩn, và có bạn học lớp tôi là con trai cô cũng “like” tấm hình.
Put two and two together, tôi hỏi lại Phong cho chắc, Phong bảo cậu Nữu là em
ruột của cô – mẹ Phong. Tôi mừng vui khôn xiết vì gần ba mươi năm tôi chưa gặp
cô. Chẳng những vậy, thầy nhà cô là thầy Chu Hoài Nhân dạy tôi môn Anh văn lớp
8 và lớp 9, em rể cô là thầy Nguyễn Hữu Luận dạy tôi môn Địa ba năm trung học,
con thầy Luận tên Hồng Vân là bạn thân tôi từ nhỏ. Tôi vội vàng hỏi nhà văn
Nguyễn Minh Nữu số điện thoại liên lạc với cô ở Virginia và gọi cô ngay. Nghe
giọng nói quen thuộc ấm áp, âu yếm của cô, tôi xúc động vô cùng, thấy mình nhỏ
lại ba mươi năm, là cô bé nữ sinh ngồi nghe cô giảng bài. Trong trường tôi,
không chỉ học trò mà các thầy cô giáo đều yêu quý kính trọng cô như người mẹ thứ
hai vì tấm lòng và tình thương cô dành cho bọn quỷ sứ chúng tôi. Chúng tôi mê lối
giảng văn lôi cuốn hấp dẫn của cô, nhất là khi cô giảng ca dao. Khi giảng bài “
Tát nước đầu đình” mà chàng trai hứa giúp từ xôi, lợn, rượu, chiếu, chằm, cheo
cưới, cau… cô kết luận “Thế là anh giúp cả cái đám cưới rồi còn gì!”. Cả lớp cười
rộ. Cô luôn luôn mặc áo dài đi dạy, rất dịu dàng, luôn tươi cười dù cuộc sống
có khó khăn thế nào.
Thật
là một bất ngờ cuối tuần đáng nhớ. Tôi không biết do giác quan thứ sáu, duyên
may hay trái đất tròn như Galileo nói. Thôi tôi cảm ơn facebook vậy!
Minh Ngọc
Tháng
10/2017