Sài Gòn của thập niên ’60 đang chuyển dần từ một thành phố
thanh bình thời ông Diệm sang địa bàn của một thủ đô đầy biến động không hẳn vì
những xáo trộn chính trị mà đã nhuốm màu của sắc thái chiến tranh khi ngoại ô đèn
vàng sáng lên các đóm mắt hỏa châu và kể từ Mậu Thân ’68, các đợt pháo kích hỏa
tiễn của địch đã cận kề những con đường phủ lá me xanh khu trung tâm thành phố.
Gia
đình Sương, một gia đình trung lưu với một trai ba gái đã sống ở thành phố này,
sau khi cha mẹ dứt bỏ cơ ngơi, dắt díu đàn con di cư từ một thị trấn vùng cố đô
Hoa Lư vào nam khi đất nước chia đôi.
Sương
sanh đúng vào thời điểm này và vô tình nhà quen gọi bé Ngọ, khi lớn lên ở tuổi
dậy thì, tên Sương như quyện với giai thoại của bài hát, thấp thoáng có câu, em tan trường về/ anh theo Ngọ về từ một
ca khúc của Phạm Duy, vì chính Sương nhờ hương sắc trời cho vẫn tạo ra cái ‘đuôi’
từ các nam sinh mỗi giờ tan học.
Trong
số bạn bè trai gái, Sương vẫn nổi trội như một khuôn mặt con gái nhà lành nhưng
có con mắt tinh nghịch, thích chép và thuộc nhiều bài thơ tiền chiến và ít khi
vắng mặt trong các buổi văn nghệ của trường. Sương cũng hay tham gia các chuyến
đi hát cho lính ở các tiền đồn, một phần cũng do có ông anh sĩ quan hải quân,
phần nhà trường cần có cô cho thêm phần tươi mát trong chương trình ‘hậu phương
yểm trợ tiền tuyến’. Giọng hát truyền cảm của Sương và hương sắc vốn có nhiều
người tưởng về sau khi lớn lên biết đâu Sương sẽ theo đuổi nghiệp ca.
Cách
xử sự của Sương rất tự nhiên, cũng như bao cô gái lứa tuổi ngày xưa thân ái, Sương
cũng có các buổi hẹn hò, tuy chỉ là ăn kem, dạo phố, coi phim, nhưng vì gia đình
gia giáo, lại có ông bố nghiêm khắc, cô chưa bao giờ đi xa hơn. Từ khi lên cấp
ba, trái tim của Sương vẫn bỏ ngỏ dù cho cái ‘đuôi’ của những chàng nam sinh
theo đuổi càng ngày càng dài ra, cho đến khi gặp một chàng trai bên văn khoa trong
tình văn nghệ họ phải lòng nhau, rồi đi đến hôn nhân khi chàng trở thành một giáo
viên, cũng là lúc đất nước đổi đời, đời Sương bước vào một chương mới.
Lúc
này Sương đã trở thành thiếu phụ, bươn chải cuộc đời với nhiều lo toan, lại thêm
một đứa bé chào đời và chồng do lý lịch chưa phải là ‘đỏ’ phải đổi đi dậy trường
xa mãi tận Bến Tre. Cô Sương ngày ấy vẫn trụ lại Sài Gòn và xin được việc làm tại
xi nghiệp nhà nước chuyên chụp hình cho khách thăm viếng khu Thảo cầm viên. Một
nữ sinh tay ngang vào đời, khi nghiệp vụ được giao chẳng phải là tay nghề hay đam
mê tự chọn, nhưng với năng khiếu nghệ sĩ mầy mò thế nào, cô trở thành tay săn ảnh
ăn khách và đặc biệt có duyên với các trẻ em.
Chồng
Sương cứ hai tuần một lần về với gia đình, lương tiền chẳng đủ ăn nhưng cứ phải
bám vào biên chế để hưởng tiêu chuẩn tem phiếu. Cũng may cột trụ gia đình lúc này
lại là tay Sương, đưa đẩy thế nào mà chỉ nhờ chiếc máy ảnh cũ của ông chú cho
trước khi vượt biên, cô đã có nhiều mối làm ăn những ngày cuối tuần trong các dịp
hiếu hỷ, họp mặt gia đình, vui chơi tập thể của một nếp sinh hoạt như được khơi
dậy sau ngày Sài Gòn đứt bóng. Cô lo cho gia đình, lo cho con, đam mê kiếm tiền,
nhiều khi cuối tuần gặp khi chồng về, cô cũng chẳng màng chuyện gối chăn. Chuyện
cứ kéo dài như thế khoảng vài ba năm.
Sau
khi Sương sanh đứa con thứ hai, hạnh phúc gia đình hình như có một lỗ hổng. Khoảng
trống xuất phát từ phía cha mấy đứa nhỏ vốn sống cảnh cơm hàng cháo chợ nơi xứ
dừa, đem lòng mê một thôn nữ con bà chủ quán. Họ cứ vụng trộm như thế cho đến
khi chuyện đến tai Sương, vỡ lở cũng chỉ vì ông giáo mê gái đem cô bồ lên thăm thành phố, xui khiến thế nào hàng xóm bắt gặp
học lại cho Sương.
Bán
tín bán nghi, Sương xuống tận Bến Tre tìm hiểu sự tình. Chuyện có thật, chồng Sương
xin lỗi, hứa quay về với vợ với con. Vừa thương con vừa không muốn cảnh đổ vỡ
thiên hạ dị nghị, Sương khuyên chồng bỏ việc, tự lo chạy chọt giúp chồng quay về
thành phố, làm chân kế toán ngay cho công ty dịch vụ du lịch nơi Sương mới đuợc
đề bạt giữ chức trưởng phòng.
Chuyện
tạm yên, trùng hợp lúc này gia đình đang có hồ sơ bảo lãnh bên chồng, do người
chị chồng di tản hồi 75 đứng đơn từ Mỹ. Xã hội ngoài đời đang ở bước đầu thời kỳ
mở cửa, Sương làm ăn càng ngày càng khấm khá, nhưng cũng chân trong chân ngòai,
hễ hồ sơ bảo lãnh được gọi, gia đình sẵn sàng ra đi vì tương lai các con.
Chuyện
tưởng thế nhưng không phải thế, ông chồng lấy cớ về thăm mẹ già dưới Vĩnh Long,
tiện đường tình cũ không rủ cũng tới, họ lại gặp nhau, càng ngày càng đậm, cho
đến một hôm, Sương được tin chồng nàng… mất tích. Thăm hỏi khắp nơi, vẫn bặt vô
âm tín, có điều lạ là cô thôn nữ cũng rời khỏi căn nhà xưa, chuyện gì xảy ra mẹ
cô cũng chưa hề biết.
Chuyện
tìm người mất tích vô phương, công an phường công an xã thụ lý vụ việc qua loa,
họ lo mất ăn chứ không lo mất người. Sương gần như kiệt sức, quay về với bổn phận
làm mẹ, chăm lo cho con. Đời Sương quãng này được kể là một thách thức quá sức
cho người vợ trẻ một thờì được cha mẹ nuông chiều, người thân chăm sóc. Nếu không
vì phúc lợi của hai đứa nhỏ chắc cô khó đứng vững đi tiếp cuộc đời.
Cho
đến một hôm, Sương nhận được tin tức qua điện thư từ người chị bên chồng nhắn về
là ba mấy đứa nhỏ đang ở trên đảo dành cho người tị nạn gần Mã Lai. Oái oăm là
không phải đi một mình, mà lại cùng một người đàn bà lạ. Sau này hỏi ra, anh chồng
tâm sự với chị ruột chính là cô thôn nữ. Họ gắn bó mê mẩn thế nào mà cả hai rủ
nhau vượt biên cho xa cái nơi mà Sương vì yêu chồng vẫn để tâm canh chừng nhòm
ngó.
Nghe
được tin này Sương khóc. Cô ít khi khóc dù gặp nghịch cảnh, nhưng lần này như
chạm vào tự ái của một người đàn bà hết mực yêu chồng và thương con, lại bị phản
bội từ một kẻ tán tận lương tâm bỏ bê gia đình trốn chạy cùng một phụ nữ khác. Suy
nghĩ thì như vậy, nhưng dần dà cô cũng nhẹ lòng dù sao cha mấy đứa nhỏ cũng còn
toàn thân và sắp nhỏ không bị mồ côi vì người cha dại dột.
Những
ngày ở đảo, chồng Sương xoay sở chuyện khai báo hồ sơ để được phỏng vấn đi định
cư tại Mỹ. Mê muội thế nào mà anh ta cứ khai cô bồ là ‘vợ’, lãng quên là thời
buổi internet hồ sơ bảo lãnh của anh từ Mỹ vẫn là ‘chủ gia đình một vợ hai
con’. Ngày được gọi phỏng vấn, không khó
khăn khi phái đoàn Mỹ phát gìác vụ này, anh chàng bị từ chối và được cho biết hồ
sơ gốc từ Việt Nam cũng hết giá trị, riêng anh được xếp diện ‘vĩnh viễn bị từ
chối nhập cư vào Mỹ’. Hậu quả hai người bị lên danh sách chuyến bay trả về quê
cũ theo chính sách mới về tị nạn của Cao uỷ tị nạn.
Vào
một sáng đầu thu cuối thập niên ’90, chuyến bay đầu tiên chở những người không đủ
tiêu chuẩn nhập cư nước thứ ba do Cao ủy tị nạn thuê đã đáp xuống phi trường Tân
Sơn Nhất, danh sách chuyến bay có chồng của Sương, kèm tên cô bồ của anh. Về nước
họ âm thầm chia tay, ai về nhà nấy, chấm dứt một chuyện tình mờ ám và một cuộc
viễn du trốn chạy đầy trắc trở.
Trở
lại chuyện của chồng Sương, anh không dám về nhà vì biết tội mình quá lớn, chắc
chắn Sương không bao giờ cho phép trở lại. Anh lặng lẽ xuống quê mẹ tá túc, sau
một thời gian thăm dò anh nhờ bà mẹ già trung gian chủ động cho anh ta xin lỗi
Sương và xin được trở về xây lại tổ ấm cũ. Chuyện không thành dù năn nỉ nhiều lần,
chồng Sương chấp nhận đường ai nấy đi chỉ xin được có dịp cho con về nội để được
gặp mặt con, dù sao chúng chặng tội tình gì. Giòng đời trôi chảy, nghe nói anh
ta đã làm lại cuộc đời với bà vợ mới hơn anh vài tuổi, nhưng có cơ ngơi giúp người
đàn ông hòa nhập lại với cuộc sống.
Đời
Sương thực sự bước sang chương chót khi nửa đời nhìn lại, con cái một trai một
gái đã tốt nghiệp đại học, đứa lớn đã lập gia đình. Trái tim Sương mải lo cho
con, lại bị chấn thương vì cuộc tình gẫy đổ, cô quyết định ở vậy và tìm quên
trong một sinh hoạt tâm linh giống như thiền định của một tổ chức quốc tế có
chi nhánh ở Việt Nam. Không hẳn thuộc tôn giáo nào, nhưng về mặt giao lưu, các
thành viên của hội hay gặp gỡ nhau trong các cuộc hội thảo trao đổi quốc tế cứ
ba năm một lần tổ chức tại những quốc gia có nền văn hóa đa dạng từ Âu sang Á.
Vì là thành viên tích cực và thâm niên cao, Sương trúng cử đại diện cho thành
phố đi dự hội thảo tại Áo quốc. Chuyện xin hộ chiếu không khó khăn gì, chuyến đi
kéo dài 10 ngày, ăn ở di chuyển do tổ chức đài thọ.
Chưa
một lần xuất ngoại, nhưng đã làm ngành du lịch, có vốn Anh ngữ khá, Sương cảm
thấy thoải mái trong chuyến đi, càng thú vị khi đuợc một gia đình người Việt tại
thủ đô Vienna tự nguyện hướng dẫn thăm thú cảnh sắc và giới thiệu nét văn hóa
phong phú của người Áo.
Nói
về nước Áo, một vùng đất thơ mộng nằm cạnh nước Đức, những người yêu nhạc cổ điển
biết nhiều về vùng đất này. Tuy xa Việt Nam về địa lý nhưng lại gần vì quốc gia
này do lòng nhân đạo đã tiếp nhận cả chục ngàn người di tản sau 75, trong đó những
người nhập cư gốc Việt đa phần là trí thức hoặc chức sắc thuộc chế độ cũ, có thân
nhân ở Đức ở Pháp.
Người
Việt nhanh chóng hội nhập với nước sở tại, nhiều bác sĩ, giáo sư, kỹ sư đã đổi
lại bằng, con cái họ trở thành các học sinh, sinh viên xuất sắc của các trường
trung đại học tại Áo. Trong số này có gia đình của một kiến trúc sư trẻ, anh tốt
nghiệp kiến trúc từ đại học Sài Gòn trước 75. Không khó khăn lắm anh hành nghề
trở lại, thách thức là chuyện ngôn ngữ tiếng Đức (Áo không có ngôn ngữ riêng),
nhưng tay nghề và tài năng ngang ngửa với các đồng nghiệp mới.
Anh
có một vợ hai con, cô vợ đang học dở dang y khoa từ Việt nam. Nhờ trợ cấp xã hội
dành cho hai đứa nhỏ từ chánh phủ, cô vợ ở nhà trông con và học học thêm Đức ngữ,
khi gia đình đi vào ổn định, anh chồng trẻ chịu để vợ ghi tên học lại. Năm năm
sau, vợ anh trở thành bác sĩ, được nhận thực tập thường trú tại một bệnh viên
ngay tại thủ đô. Anh vẫn là một kiến trúc sư làm cho chánh phủ, có tay nghề
cao, hai con một trai một gái được chuẩn bị đi theo đuờng của hai cha mẹ nó. Cuộc
sống thành đạt nơi xứ người như một giấc mơ trở thành hiện thực, chuyện cũng không
phải hiếm với nhiều hoàn cảnh di dân gốc Việt tản lạc trên khắp năm châu.
Tuy
nhiên hạnh phúc cũng có cái giá phải trả, định mệnh rớt đúng vào tổ ấm của chàng
lúc này đã vào tuổi trên dưới bốn mươi. Cùng lúc hai con được nhận vào đại học
với ngành nghề tự chọn, vợ anh đã xin ly dị vì phải lòng người giáo sư trẻ nước
sở tại đã kèm cặp và bảo trợ cho cô. Chuyện lúc đầu thầm kín sau công khai, bước
đi của người đàn bà như bị quỉ ám không thể giật lùi dù có những lời khuyên bảo
của gia đình và bạn bè thân quen. Người chủ gia đình chấp nhận chia tay, nhưng
khá quân tử khi chịu coi nhau như tình bạn vì cùng lo cho tương lai các con.
Khi
các con ở tuổi ra trường, ông chồng hình như xong bổn phận, xin về hưu non, qua
Mỹ thăm người thân một thời gian. Vài tháng sau thấy hạp sinh hoạt trên đất mới,
bạn bè cũ lại nhiều, anh xin việc vào làm cho một công ty của người Đức, sau đó
ở lại luôn vì có người anh đứng ra bảo lãnh. Mỗi dịp hè hai năm một lần anh về
lại Áo thăm con hoặc dự lễ cưới của chúng. Chuyện có người yêu mới không hề bận
tâm đối với anh sau lần gẫy đổ, anh lao vào công việc như để quên thời gian và
làm lợi cho hãng.
Hè
năm nay về lại Áo anh ở chung với gia đình người chị, tình cờ cũng là gia đình
tự nguyện hướng dẫn cho Sương khi thăm thành phố thơ mộng này. Người chị mau mắn
giới thiệu cho em trai khi biết Sương cũng đang cảnh ‘bà mẹ độc thân’. Gặp cơ
may hiếm có, con tim chàng kiến trúc như đã vui trở lại, họ thường xuyên gặp gỡ,
tìm hiểu nhau, dù chưa thân mật nhưng tình trong như đã mặt ngoài còn e. Nàng về
Việt nam, chàng quay lại Mỹ, nhưng anh xin kéo dài kỳ hè để chiếm bằng được trái
tim người nữ.
Định
mệnh đã mỉm cười với họ. Hai người gặp nhau nhiều lần ở Sài Gòn. Khi mọi chuyện
được thu xếp ổn thỏa về phía Sương, một đám cưới khá linh đình ra mắt hai họ và
thủ tục bão lãnh không mấy khó khăn khi anh chàng quyết đưa nàng về Mỹ.
Đời
Sương tưởng đã yên phận nơi quê nhà, nay lại làm lại từ đầu trên đất mới. Vị ngọt
của tình yêu đến muộn ở tuổi về chiều giúp cô gắn bó với người chồng mới. Hai tâm
hồn cô đơn, thương tổn như được tưới gội bởi ân sủng bù trừ. Họ vui sống bên
nhau tại một thị trấn vùng Ngũ Hồ, hay đi du lịch trong những ngày không vướng
bận bởi công việc bán phần, tất nhiên thăm lại các con, các cháu vẫn nằm trong
lịch trình chuyến bay luân phiên hằng năm của cả Sương lẫn người bạn đời đến muộn.
Đỗ
Xuân Tê
Quân Cam, tháng 8. 2017
Nhân vật và địa danh hoàn toàn hư cấu, nếu có trùng
hợp ngoài đời là ngoài dự tính của người viết.