Lữ Quỳnh, Với tập truyện Cát Vàng, truyện vừa Những Cơn Mưa Mùa Đông, truyện dài Vườn Trái Đắng, ký Đi Để Thương Đất Nước
Mình-nhà văn? Với tập thơ Sinh Nhật Của Một Người Không Còn
Trẻ, Những Giấc
Mơ Tôi, Mây Trong Những Giấc
Mơ- nhà thơ? Là nhà sáng
lập và công tác thường xuyên qua nhiều giai đoạn của tạp chí Ý Thức? Là tác
giả của những con chữ lang thang không ngày tháng?
Với riêng
tôi, từ những
bài thơ và những
truyện ngắn đầu tiên
tôi đọc lúc thời còn đi lính ở Pleiku, tôi đã có những
ấn tượng về một tác giả mà tôi rất xa lạ và chưa hề gặp mặt. Đó là những
cuộc sống mà anh diễn tảgần cận đờithường nhưng có
chuyên chở những thông điệp khá nhân bản. Nếu gọi là phản chiến thì có một phần nhưng thiên tả thì không.Đó chỉ là sự thoáng qua và tôi
nghĩ lại, cách nay nửa thế kỷ…
Bây giờ, tôi đọc “Sinh nhật của một người không còn trẻ” thơ Lữ Quỳnh. Cái cảm giác “không còn trẻ” có phải là chưa về già, hình như
trong tâm cảm
và thơ có điều gì, nửa như
tiếc nuối, nửa như nhớ về. Ở đời thường, thi sĩ là một người dễ mến với nụ cười trên môi qua đôi mắt long lanh sau đôi kính cận.Thế mà, đọc thơ sao nghe như có một điều gì lặng lẽ tha thiết trong tâm.Thơ là ngôn ngữ của lặng thầm, và là những hồi ức mà suốt đời thi sĩ không bao giờ quên được.Thời gian mấy chục năm, đối với lịch sử đất nước chỉ là một chớp
mắt.Nhưng với
một đời người, thì lại
là khoảng cách rất
lâu.Thi sĩ đã đi và về,
trong khoảng cách ấy bằng thơ.Nếu nói thơ là đời sống, không biết có
phải
là nhận định vội
vàng không?Ởcảm quan của một người đọc, tôi thấy như
vậy!
Những câu thơ đã thành ý
tưởng tiền chế cho một cảm giác chia sẻ, để như thấy lại một không gian cũ, một thời gian xưa.Thơ không phải kể chuyện đời sống,
mà, chính nó
là cuộc sống.
Sinh nhật
tôi
Một ngày
tháng chạp
Những ngọn nến thắp
Là hồi
ức buồn.
Những người
sinh vào tháng chạp, ở thời
điểm cùng tận của một năm đã thắp lên một ngọn nến để soi tỏ lại dung nhan cái hồi ức của mình. Giản
dị chỉ có vậy,
nhưng trong liên
tưởng tôi thấy bàng
bạc một mùa
đông. Một nỗi niềm nào
từ không gian, thời gian lan tỏa
tới làm bước chân quay trở lại về quá khứ.Không gian ấy, thời gian ấy, có phải là vương quốc của thơ đang ngự trị?
Một nhận
xét đầu tiên,
là một nghịch lý. Trong khi chúng ta nói về tình yêu
lúc tuổi trẻ và thời
thế lúc tuổi già. Thì ngược lại, Lữ Quỳnh đã làm thơ để suy nghĩ về đời sống, nói lên những
cảm nhận về thời cuộc lúc còn
trẻ, rất trẻ.Và,
ông làm thơ về tình yêu
với những tình cảm
trầm lắng vào lúc
tuổi già.Nếu không có những dòng
ghi ngày tháng sáng tác ở
cuối mỗi bài
thơ, có lẽ
tôi sẽ bị sai lầm mà nghĩ
theo lệ thường như
vậy…Trẻ và già, ở tùy
từng người.Có khi trẻ ở tuổi bảy mươi tám mươi và già ở tuổi
hai mươi, hai mốt.Điều đó, đâu có gì là lạ lùng, nhất
là đối với những
thế hệ đã trải qua nhiều biến động thử thách của thời thế như Lữ Quỳnh.Với người thơ, cái ý niệm thời gian và không gian có
khi chỉ là biểu kiến. Thơ vượt qua những khoảng cách tháng năm, có thể chứ sao không? Trong cảm giác của
người đọc thơ, tôi lờ mờ thấy
qua con chữ những
ngỏ lời rất lặng thầm nhưng
lại hằn dấu trong tâm thức, Thơ về hồi ức hay là hồi
ức, tôi tự hỏi khi đọc
từng bài trong “Sinh nhật của một người không còn trẻ”…
Thơ tình
yêu của Lữ Quỳnh, buồn nhưng ấm áp, như có ngọn lửa sưởi trong lòng dù dông bão buốt giá ngoài kia, dù khung
cảnh nghĩa trang lạnh lẽo dưới mưa, dù những con đường ướt sũng nỗi niềm:
“Em quấn
khăn quàng cổ màu xanh
Như tranh
Đinh Cường thời thiếu nữ
Tôi không còn
trẻ để cầm tay em nữa
Nhưng lòng
luôn sẵn lửa cho em
Và tình luôn
ấm áp trong tim
Để sưởi em
ngày đông tuyết giá
Tội
nghiệp những con đường xe qua buồn bã
Không bóng người chỉ
bong bóng mưa xao...”
Tình
yêu có thể là những
ngày thật yên bình của tuổi già khi
mùa đông về từ ngoài khung cửa. Một cảm giác ấm áp dịu dàng
của người vừa chợt
hiểu ra hạnh phúc:
“bắt đầu những
ngày bình yên
ngắm mùa
đông
ấm áp trong tóc em
trong ánh mắt reo vui
bữa cơm chiều...”
Làm
thơ cho bạn hữu,cho những
tri kỷ của đời mình, qua những gập ghềnh của cuộc nhân sinh, người thơ như cảm thấy thời gian quá xa
vàkhông
gian thì vời
vợi. Những câu thơ như:
“ngồi tưởng
quê nhà đang có bạn
đứa nằm hiu hắt chốn
trăng sao
đứa đang chiếc bóng đêm mờ tỏ
thìcuộc
sum vầy nay chốn nao..”
Những địa danh như đường Duy Tân, như phố Tân Định của Sài Gòn
ngày nào đã nhắc nhở đến những bằng hữu, đến nơi chốn của kỷ niệm mù xa,
của những Trịnh Công Sơn, những Đinh Cường của một thuở nào thân thiết.
Với Đinh Cường:
“Chiều Tân Định rưng
rưng phượng đỏ
Đỏ gió
mùa khô. Đỏ mắt mình
Rượu đỏ trên
tay tràn nỗi nhớ
Hoàng
hôn nào hoàng hôn trong tranh
Đường thuốc lá
chiều nay vắng bạn
Một ly mình. Và một
ly không
Điếu thuốc lá
ngậm hoài
thấy nhạt
Khói lang thang khói cũng ngập ngừng
Quán Hoa
giấy
chiều nay lãng
đãng
Uống ngụm nắng tàn
trong chiếc ly không.”
Và với
Trịnh Công Sơn:
“...haichiếc ly thủy tinh
lóng lánh rượu
vàng
giữa sương khói-khói hương
đêm tĩnh lặng
nhẹ nhàng
cụng ly
mơ hồ nghe cổ đắng
anh bên kia núi
gõ nhịp
lãng du
hát mệt nhoài cát
bụi.”
Khi tuổi
trẻ,những bài thơ là những suy tư của một người biết vui
buồn sầu cảm sớm hơn tuổi đời. Ở ngày
hai mươi tuổi, đời sống mở ra trăm nghìn
bí nhiệm mà cõi
hồn còn xanh ngát những ước vọng ban đầu.
“rồi anh
vẫn
là loài câm
vĩnh viễn
đi bơ vơ trong thế giới loài người
anh sẽ
xin trời từng ánh sao rơi
để đốt lửa lên cho lòng
ấm lại
lúc mở mắt gặp mùa
thu chín trái
nên
lời anh vi vút tiếng chim rừng
nên
hồn nhiên như những lứa nam trân
vàhơi
thở thơm mùi
hương dạ thảo…”
Ngày
mười bảy tuổi, thi sĩ thành một người trưởng thành sớm
hơn tuổi để trong dịp giáng sinh cao giọng cất rao lời kêu gọi loài người.
Thơ chững chạc trong sự suy
nghĩ
của một cậu bé òa vỡ những
cảm giác của một thời những
giấc mơ, những
mộng ước của mai sau:
“Hỡi loài
người hãy quỳ gối cùng tôi
đêm nay sẽ thấy ý đời trở lại
đêm nay sẽ thấy ý đời thôi khổ ải
sẽ thấy đời tràn
ngập cảnh yêu
thương
những
tràng chuông dồn dập giữa đêm trường
cùng
bao ánh mắt dịu hiền trao trả
hỡi loài
người hãy
cùng tôi quỳgối
đón hòa
bình trong sóng nhạc đêm nay
mỗi âm thanh là ánh mặt trời này
ôi bất diệt hòa
bình ơi bất diệt”
Năm 1959 là năm
đất nước còn
thanh bình. Nhưng chỉ mấy năm sau, chiến tranh đã thành cơn
ác mộng cho cả dân tộc. Và,
Lữ Quỳnh, trong những bài
thơ sau này đã nhìn cuộc chiến với người trong cuộc và đau xót vì những
mất mát chia ly. Có những
chàng trai, vì bổn phận mà phải gia nhập quân
ngũ, nhưng lòng vẫn
không vui khi phải
tham dự vào
một trò chơi của những
tênđấu thầu chiến tranh lợi dụng những chiêu bài
buôn bán máu xương. Hãy
đừng trách họ phản chiến.
Bởi vì họ đã nói lên một thực trạng của đất nước mà những
người tham dự cuộc chiến như những con cờ để những
cường quốc
đấu chiến quyền lực với nhau.
Ở thời điểm chiến tranh khốc liệt nhất, năm 1969, Lữ Quỳnh đã viết:
“... Xin tha lỗi anh thêm một lần
hỡi em
hỡi em-chỉ thêm một lần
vì đầu
chiến tranh chưa vỡ
vìsúng
này chưa biến thành cành khô
đểanh gởi
tặng đám học trò
chiều tất niên
đốt làm lửa trại
hy vọng
xanh rờn cho tay em hái
sẽ không
bao giờ
còn một mình
nằm nghe gió quái
đầu hiên
cùng
nỗi nhớ anh chập chờn nước mắt.”
Một bài
thơ cho Huế.Không
phải của Huế thơ mộng áo
trắng nữ sinh lượn
tà.Cũng không phải cầu Trường Tiền sương mù trên
mặt sông Hương. Mà là Huế oan khốc, nát tan.Thơ mùa xuân mà tang tóc.
“bây giờ thành
phố đó
đạn rền khắp ngoại ô
bạn bè anh ngã xuống
chết đi như
tình cờ
bây giờ thành
phố đó
lạnh nằm
trên ngọn cây
mùa
xuân trong áo rét
em qua cầu
có hay
giòng
sông là quá khứ
soi mặt
mấy trăm lần
tuổi thơ loài thú dữ
tiếng gầm nào đã tan?
Hàng
cây cao lá
đỏ
Ngày
xưa anh đến
trường
Ngày
nay anh máu đổ
Rơi hồng trên quê hương
Bây giờ thành
phố đó
Bạn bè như bóng mây
Mùa
xuân không pháo nổ
Chỉ súng dội quanh ngày.”
Viết những con chữ,dù làm thơ hay viết văn, vẫn là một cách
thế khắc ghi lại
đời sống bằng văn chương. ỞLữ Quỳnh, một điều thấy rõ là ông
có cái
tâm bình hòa
và sự sôi nổi, sự vọng
động của thời thế, ít hoặc nhiều khi không ảnh hưởng đến văn phong của ông.Nét nhân bản là một đặc tính chứa sẵn trong thơ và truyện của ông.
Lữ Quỳnh khởi nghiệp viết văn làm thơ khá lâu, tính đến nay đã gần nửa thế kỷ. Thế mà đọc thơ của ông, bây
giờ, vẫn thấy được nét trẻ trung,
vẫn
tìm được những lạc quan của thời còn
trai trẻ.Một
tập thơ, có những bài
viết từ năm 1959,mà xuất bản hôm nay, chắc phải là những
điều mà thi sĩ tâm đắc. Nghĩ về chiến
tranh, giở lại từng phần hồi ức , có phải ông đã sống lại cuộc sống mình, đã “ trẻ
hóa” tâm tư.Và bên cạnh tình cảm
với đất nước, tình
tri kỷ với bằng hữu, còn
có tấm
lòng “ở” với văn chương.Trẻ hay không còn trẻ, câu hỏi ấy từ thuở chập chững làm tạp chí Ý Thức ở miền Trung thời chiến tranh hay bây giờ, ở xứ người,chắc không phải là vấn đề mà nhà văn Lữ Quỳnh của “Cát Vàng”, của “Sáng sương mù”, của
“Những cơn mưa mùa đông”, của “Vườn Trái Đắng”hay của nhà thơ
tác giả “Sinh nhật của một người không còn trẻ”, quan tâm. Bởi, vẫn vời vợi trong ý thức là hình dáng con người Việt Nam muôn đời, dù trải qua bất cứ những đa đoan, những trầm bổng thế sự nào…
Đọc “Những Cơn
Mưa Mùa Đông”, một tác phẩm
tôi nghĩ là tiêu biểu của Lữ Quỳnh.“Những Cơn
Mưa Mùa Đông”, ấn bản đầu
tiên do nhà xuất
bản Nam Giao xuất
bản năm 1974 cách nay đã hơn
30 năm.Ấn bản thứ hai do Thư Ấn Quán xuất bản ở hải ngoại. Quyển sách được tái
bản từ một bản lưu trữ tại thư viện
Cornell. Mỗi một tác phẩm đều có một duyên phận định đoạt riêng, nhà văn
Trần Hoài
Thư trong chủ trương gìn
giữ và phục hồi nền văn học
miền Nam đã bị bức tử đã thực hiện Tủ Sách Di Sản Văn Chương Miền Nam trong đó có quyển sách này.
Năm
1974, khi tình hình chiến sự càng ngày
càng tăng cường độ khốc liệt, Lữ Quỳnh viết về chiến tranh, từ một góc độ chủ quan, nhìn
ngắm thực trạng đất nước.Văn chương
của ông, như những tiếng kêu bi thiết và quan
sát chiến tranh ởcon mắt tối thẳm của một thế hệ phải lao vào
cuộc chiến một cách bất đắc dĩ. Hòa bình, vẫn
là hướng vọng của tương lai, cho yên bình ở quê hương.Không một ai, là người
Việt mà muốn làm công việc chong mũi súng chĩa vào nhau.Nhưng
thực tế vẫn phải tham dự vào một cuộc chiến vô nghĩa lý.
Đến bây giờ, dù chiến tranh đã chấm dứt từ lâu nhưng dường như sự yên bình vẫn chưa đến.Vẫn còn những
đau đớn, những chia xa, những hận thù ngộ nhận.
Và, nước Việt Nam bây
giờ, dù đã độc lập nhưng chưa dân chủ tự do và vẫn
còn những đe dọa từđế quốc phương Bắc, xã hội vẫn còn nghèo
nàn lạc hậu…Một thực
tế đáng buồn của thời hậu chiến tranh.
Tác giả mở đầu truyện với một cơn mưa và kết truyện cũng với một cơn mưa. Những cơn mưa của một đứa trẻ gia đình bị phân ly trong mầm mống của chiến tranh.Đứa bé tên
Vũ, bắt đầu những
tháng ngày ấu
thơ: “Đứa trẻ nép sát vào
mái hiên nhà mồ.
Mái xi măng thấp, hẹp, ngang với
mặt đất không ngăn được những
giọt mưa đang trút xuống.Mưa trắng xóa cánh đồng.
Thỉnh thoảng gió rít
lên làm cơn
mưa tạt ngang khiến
đứa trẻ vụng về
né tránh…”
Và, đoạn kết, chấm dứt cuộc đời một đứa trẻ là nạn nhân
bị chết trong chiếc xe lam của một vụ phục kích đoàn công-voa của những
người áo đen phía bên
kia: “Đôi môi Vũ run rẩy, cuối cùng
chỉ thốt được hai tiếng “cha
ơi”,
trong khi hình ảnh khu vườn của mùa mưa quê nhà, chiếc đầu lắc lư của ông nội, cùng với những kỷ niệm hắt hiu thời thơ ấu của Vũ
hiện ra để rồi trắng dần như mưa mù mùa
đông…”
Đứa bé đã trải qua những ấu thơ dằn vặt mà dấu ấn chiến
tranh vẫn
còn hằn dấu trong cuộc
sống. Lớn lên
trong một vùng
xôi đậu mất an ninh trong một gia
đình đơn chiếc mà người cha đã lên núi làm du kích. Bóng dáng người cha này
lúc nào cũng hiện diện trong hàng ngày
hàng giờ của người vợ,
mẹ của Vũ, người cha, ông
nội của Vũ và đứa con, Vũ. Sống mà như
chết. Ẩn mặt mà lúc
nào cũng hiện diện.
Không gian của truyện là những
cơn mưa. Mưa. Những cơn mưa mịt mù của quê hương hình như không bao giờ ngớt trong truyện như
dàn trải ra một thế
giới lạnh lẽo của thế hệ Việt Nam trưởng thành từ trong lửa đạn. Mưa, Những giọt nước hắt
vào tâm tư lạnh buốt như muốn biểu hiện một không gian thời gian nào
buồn phiền
của cõi người. Tự nhiên,
tôi liên tưởng đến những cơn mưa trong tiểu thuyết hiện thực huyền ảo của nhà văn Gabriel Garcia Marquez. “Trăm năm Cô Đơn”:
“tựa như một cơn bão nhiệt đới muôn sắc tuyệt vời nhưng phức tạp. Mưa.Mưa rơi liên tiếp suốt một thế kỷ. Hay là mưa rải những đóa hoa vàng xuống cả một miền đất đai. Đó là những
nét độc đáo của
lối kể chuyện đầy tính truyền kỳ huyền ảo…”.
Mưa mang
theo cơn bão
trong lòng
người và làm lạnh buốt những
cõi người, có
phải
là chú tâm muốn tượng
hình diễn
tả của “Những Cơn
Mưa Mùa Đông” trong văn phong Lữ Quỳnh? Chỉ là liên
tưởng đến những cơn mưa của “Trăm Năm Cô Đơn” mà không phải là so sánh, những cơn mưa của truyện đã gây thật nhiều ấn tượng và tưởng
tượng cho người đọc…
Những nhân vật của truyện lànhững hình dạng của những con người cô độc.Lạnh lùng
không sinh khí
họ chờ đợi sự sắp xảy ra sắp hiện
đến với nỗi bi quan.Những
thế hệ nối tiếp nhau.Từ
ông nội, đến người cha, người
mẹ, người cha dượng,
… những người còn sống, đến hai người chú bị chết chém, tất cả những
người thân của Vũ, đều là những hình ảnh của ảm đạm, thừa dằn vặt đau khổ và thiếu niềm vui.
Ông nội cũa
Vũ, người lúc nào cũng mong ước sự yên bình và giây phút sum họp khi người con trở về nhà.
Ông không thể nào coi người con trưởng đã chết như
hai người con thứ của ông, nhưng
thực tế, người con ở xa ấy mỗi ngày như
một ám ảnh nhắc lại một thực tế đầy hăm dọa bất tường. “Mỗi
lần có sự
không vui trong nhà như
hôm nay, ông thường nhớ
tới Cung, người con trai trưởng cha thằng Vũ, giờ này còn
sống ở đâu đó, nhưng
làm sao tin được cái
ngày Cung sẽ trở về?
Chẳng thà như hai người em trai của Cung... Ông già nghĩ đến hai nấm mộ mà mỗi chiều ông vẫn
dẫn thằng Vũ ra thăm, ông nói lầu bầu trong miệng:
“Nhưng khổ cho cha là cha
không
thể cầm bằng như con đã chết
được…”
Người mẹ của Vũ, có lúc nghĩ tới người chồng đi xa qua hình ảnh của
đứa con, “chị
nhớ tới ngày xưa anh ấy vẫn thường hay vùi
mặt trong tóc chị
âu yếm. Khuôn mặt ấy bây giờ thấp thoáng nơi thằng Vũ...” Nhưng hình bóng
của quá
khứ ấy chỉ là giây
phút, còn
hiện tại, trong lòng
người đàn bà khao
khát xuân tình ấy đã có hình bóng
khác.Tưởng thời gian tái
ngộ sẽ gần đến, nhưng
thật sự thì khác.”Chị
không nghĩ cuộc gặp gỡ
của chị với người đàn ông
mới đây đã làm lung lạc niềm tin sắt son trong lòng
chị bấy lâu nay.Người đàn ông làm
đồn trưởng trên
khúc sông mà thuyền
buôn của chị
thường qua lại,
ngay lần gặp gỡ
đầu tiên chị đã chú
ý đến y. Trông y oai vệ quá. Y đứng dạng chân trên mé sông nhã nhặn xin lỗi bạn hàng cho nhân viên của y xuống kiểm soát thuyền. Y nói về cuộc chiến tranh có
thể
bộc phát trở lạivà nhiệm vụ của y là phải
kiểm soát để bảo vệ chặt chẽ
khúc sông này. Y nói thật nhiều, thật văn hoa nhưng chị chỉ hiểu đại khái có thế. Trong một giây ngưng nói bất chợt ánh mắt y hướng về chị và bốn mắt tình cờ giao nhau. Chị bối rối nhìn
xuống và cũng kịp nhận ra ánh mắt của y đã đậu rất lâu trong mắt chị...”
Người đồn trưởng ấy đã thành cha kế
của Vũ. “Vũ cũng nghĩ đến khuôn mặt người đàn ông với vết sẹo chảy dài trên
má và cánh tay bại xụi
sau một đêm bị tấn công vào đồn năm trước.Sự rủi ro đó đã tạo ra cho y và mẹ
hắn sự căm hờn quá
mới mẻ. Sự căm hờn đôi khi ánh lên
trong mắt họ vào những lần hiếm hoi gặp mặt Vũ…”
Còn
Vũ, với tâm trạng cô đơn, không chọn lựa giữa
bên này và bên kia. Vũ tâm sự với bạn:
”Thông à! Tôi không biết ngày trước, nghĩ như thế nào mà ba
tôi thoát ly gia đình một cách dứt
khoát như vậy. Đổi lại sự vắng
mặt của ông, gia đình chịu nhiều thiệt thòi quá.Mẹ, như bỏ đi hẳn còn ông nội già nua suốt ngày sống với
mớ hy vọng còm cõi, mong manh.Ông chờ gì ở người vắng mặt?Ông chờ gì ở tôi? Tôi biết ông chỉ chờ và ao ước mỗi một điều là sự yên
ổn sum vầy. Tôi biết sự yên ổn
là liều thuốc sau cùng của ông nên tôi đã cố gắng vâng
lời ông hết sức.Cha của
tôi đã làm ông nội già đi quá nhanh. Riêng
tôi, ông phải cản
lại. Vì bây giờ ngoài tôi ra ông không còn một ai, không một ai cả, bạn hiểu không?
Đọc xong cuốn sách, hình như
ngờ ngợ một điều trong tôi là những suy nghĩ từ thông điệp mà tác giả muốn gửi tới.Không hiểu tôi có đi quá
xa từ những liên tưởng của mình? Những nhân vật không chỉ đơn thuần là một nhân
vật mà còn chuyên chở
theo đó những
hình tượng khác của ẩn
dụ chăng? Bởi,
ở vị thế của một đứa trẻ, những
tâm tư suy tưởng
ấy xem ra già trước
tuổi của mình.Đứa
trẻ là một thiếu niên không lựa chọn đứng về phía bên này hay bên kia chiến tuyến.
“Khi cả nhà ngồi
vào bàn ăn, người đàn ông nói:
- Nghe đâu tình hình mỗi ngày mỗi khó khăn. Không khéo vài năm nữa thằng Vũ đi lính gấp. Con đã nghĩ
tới chuyện đi lính chưa
Vũ?
- Không, không
bao giờ
tôi đi lính cả
Người đàn ông
cười:
- Đâu phải con
muốn
đi hay không,
mà đến tuổi thì phải…
- Không, tôi sẽ không bao giờ đi lính cả...”
Và Vũ
cũng không ở bên
kia.Vũ không đến nhà thầy Trần như các bạnđể tham gia vào các
cuộc biểu tình chống chính phủ bởi vì nghe lời ông nội dặn; “ở tỉnh con luôn luôn nhớ có mỗi một điều duy nhất là chăm chú
vào việc học. Đừng bắt chước bạn bè làm
điều gì khác. Nhớ đấy không hay ho gì đâu nhé!”.
Vũ về nhà trong khi Thông và các
bạn vẫn còn
ngồi ở nhà thầy Trần.
“Thế nào
mà bạn bè chẳng cười hắn là thằng hèn nhát
thiếu tinh thần
này nọ. Mà hắn cũng thấy mình hèn nhát
thật. Phải chăng
hoàn cảnh gia đình đã
ngăn
cản hắn quá nhiều đã tạo
cho hắn sự khiếp đảm về những viễn tượng đổi thay…”
Có
phải
trường hợp Vũ là tình cảnh chung của nhiều người. Họ không chọn chiến tranh nhưng chiến tranh chọn họ. Sống trong một thời
thế như vậy bắt buộc phải có
một con đường để đi.Dù bất cứ
lý do gì, cũng không thể từ chối việc giơ vai gánh chung với những người cùng thế hệ cái gánh nặng của đất nước mà họ đang sống, trong cái xã hội mà họ
lớn lên…
Ngoại trừ, chấm dứt mọi sự như cái chết của Vũ. Khi chết Vũ gọi “cha ơi”, người cha đã vắng
mặt trong một thời thơ ấu nhưng
gây ra biết bao nhiêu
dằn vặt trong tâm tư nó. Và hình ảnh mà nó nhớ
tới lúc cuối cùng
của cuộc đời là ông
nội nó, người mong ước
yên bình với
sự trở về của đứa con trai biệt
tích mà không ngờ rằng đã mất thêm một đứa cháu nội nữa…
“Những cơn mưa mùa
đông” viết về một thời thế đã qua. Lúc ấy, không gian và thời gian truyện có lẽ chỉ ở giai đoạn bắt đầu của cuộc chiến. Lúc đó, còn là mặt
trận của du kích,
của giật mìn
đắp mô, của đêm Việt
Cộng ngày
Quốc Gia. Về
sau này, khi trận địa chiến, với cả những
thành phố bị thiêu hủy, khi hàng ngàn
thường dân vô tội bị chết
trong các trận chiến như ở An Lộc, Quảng Trị, Kontum, ...Thì những suy tư về chiến tranh có
khác
đi không?Đành rằng
chẳng ai ưa
thích chém
giết, nhất
là đối với đồng bào ruột
thịt của mình. Nhưng vẫn phải đi vào chiến tranh không cưỡng lại được.
Đọc thơ Lữ Quỳnh.Đọc
văn Lữ Quỳnh. Bây
giờ trên tay tôi là “Những con chữ lang thang không ngày tháng”. Nhưng, tôi lại thấy mình không
lang thang chút nào cả. Ngược lại tôi như
đang đu dây giữa cái đi và cái
về của thời gian. Có lúc, ngày tháng như mất biệt, nhưng
có lúc, như hiển hiện đâu đây một thời thế nào, của
một thế hệ nào,
gần gũi lắm nhưng
cũng khuất biệt lắm. Hãy
nghe Lữ Quỳnh nói
về những con chữ lang thang không ngày tháng:
“Vẫn những
giấc mơ đầy mộng mị hằng đêm. Tôi không giấu bạn bè trong những giấc mơ, cớ sao giấc mơ nào các
bạn cũng về nói cười vui vẻ sinh hoạt như những ngày còn nhau. Để
lúc tỉnh ra một
mình tôi trong bóng tối,
tôi vật vờ hoang mang như
kẻ mộng du…”
Có
phải,
thơ hay văn,
với Lữ Quỳnh, chỉ
là hiển hiện những giấc mơ. Tôi đọc một bài lục bát Lữ Quỳnh:
tự tâm mở rộng vòng tay
nghiêng
mình chỉ
thấy bóng ngày hoang vu
thân xưa hun
hút sa mù
lòng xưa cũng một rối mù vô minh
thời
gian qua hẳn
vô tình
nghiệp gieo
đủ nặng giờ đành lảng xa
khai tâm sám pháp di đà
đêm xanh ngồi
niệm hằng hà bóng
cao
hiên ngoài
lóe một đường sao
cócon
chim nhỏ cánh chao nghiêng chờ…
July 2017
Nguyễn Mạnh Trinh