Không
ngờ thi tập Vịn Vào Lục Bát từ Hoa Kỳ được gửi đến tôi sớm như
vậy, chỉ hơn chục ngày sau in ấn, ra lò. Vâng, chắc chắn đó là sự ưu
ái của nhà xuất bản Thư Ấn Quán và nhà văn Trần Hoài Thư đã dành
cho tôi. Một chút đó thôi, ấy vậy để lại trong lòng người một ấn
tượng, một cảm xúc thật sâu sắc.
Tuy
trước đây, rải rác đâu đó đã đọc một số bài, nhưng khi nó được chọn
đóng thành thi tập chuyên lục bát một cách có hệ thống, đọc lại cho
tôi cảm xúc khác hẳn. Có thể nói, đây là tập thơ quan trọng của Trần Hoài Thư. Nó như một điểm tựa sống cuối cùng
của ông. Bởi, bệnh tật và thời gian khắc nghiệt đã làm bạn bè,
người thân, từng ngày, từng ngày rời bỏ ông. Do vậy, sự biên tập
từng phần, từng giai đoạn gắn với thân phận của thi sĩ và xã hội,
một chủ ý rõ ràng của tác giả. Có điều đặc biệt, dường như tập
sách nào của Trần Hoài Thư dù viết, in ấn ở trong nước (trước 1975),
hay nơi hải ngoại đều mang hơi thở của chiến tranh. Và Vịn Vào Lục
Bát cũng vậy, tuy là tập thơ với cái tôi riêng tư nhất, nhưng nó vẫn
không thoát ra khỏi cái lẽ thường ấy. Ngoài hai phần viết về bản
thân, gia đình, và bạn bè thì chiến tranh khói lửa vẫn đậm đặc trong
thi tập này.
Vịn
là động từ, nhưng ở đây nó đã chuyển thành tính từ, hình tượng hóa
tâm trạng bi đát, ngã lòng ấy của người thi sĩ, xuyên suốt thi tập
Vịn Vào Lục Bát. Tính hình tượng này, trước đây, cũng như hiện nay
đã có nhiều người sử dụng, tuy nhiên làm người đọc rung động từ đầu
đến cuối trang của một tập thơ lục bát, không phải ai cũng làm được
như Trần Hoài Thư.
Có
thể nói, những năm gần đây bạn bè lần lượt ra đi, nhất là từ khi
người bạn đời bị đột quỵ, nhà văn Trần Hoài Thư đến với thơ nhiều
hơn. Và lục bát như những liều Aspirin giảm đi nỗi đau tâm lý trong tâm
hồn ông. Tuy nhiên, thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Do vậy, để có
một tập thơ lục bát là thử thách không nhỏ đối với một nhà văn như
ông. Và khi nhận được thi tập Vịn Vào Lục Bát, tôi đã đọc ngay, đọc
một mạch. Đọc rồi, đâu đó, vẳng lên tiếng thét, sắc nhọn như mũi
khoan xoáy thủng hồn người, xuyên thủng 143 trang sách trước mặt. Và
“Dường Như“ là một bài thơ, hay là một câu hỏi tu từ cho cả tập thơ,
mà buộc tôi phải tìm lời giải đáp trong bài viết này:
“Dường
như tôi sắp quị rồi
Nghe
chăng tiếng thét vỡ màng nhĩ tôi
Này
em, em đừng bỏ tôi
Này
thơ, xin đừng bỏ tôi một mình
Tôi
cần thơ, tôi cần mình
Sao
mình cứ mở mắt nhìn ở đâu...“ (Dường Như)
Với
Trần Hoài Thư bao năm xa quê là bấy nhiêu năm thương nhớ. Thân gửi nơi
đất khách, hồn vẫn nơi quê nhà. Thật vậy, có lẽ, chỉ những người xa
quê, xa Tổ Quốc trên ba mươi năm, và đường trở về mịt mù, xa vời vợi
như chúng tôi đọc “Tiếng Mưa“ mới thấu hiểu hết nỗi lòng của Trần
Hoài Thư. Mang theo một nỗi buồn thường trực, một tiếng mưa rơi bất
chợt trong đêm cũng làm nhà thơ thổn thức. Để rồi, nghe giọt mưa rơi
ấy, cứ ngỡ tiếng mưa nơi quê nhà:
“Ở
đây đất lạ quê người
Mấy
mươi năm cũng một đời xứ xa
Ngày
ở Mỹ đêm quê nhà
Có
khi thức giấc, bên ngoài, trời mưa!
Buồn
ơi lạnh khép chăn thưa
Nghe
như lời vọng quê nhà: Tiếng mưa !!!“
Có
thể nói, Vịn Mẹ, Vịn Cha chưa phải là hai bài thơ hay nhất, nhưng nó
lạ, và cảm động nhất trong thi tập này. Bởi, cái nhìn từ ân và bi
ân mang tính Phật Pháp về cha mẹ của tác giả. Và nếu đặt hai bài
thơ này ở cạnh nhau, ta mới thấy hết được tài năng nghệ thuật đối
cú và đối ý trong thơ của Trần Hoài Thư. Từ những hình ảnh so sánh
đó, cho ta thấy sự khác biệt khi biểu hiện tình cảm, dưỡng dục của
cha mẹ, cũng như cảm được cái điểm tựa đầu đời vô cùng quan trọng.
Và điều đó chắc chắn không chỉ ở riêng Trần Hoài Thư:
“Lan
can mẹ, mẹ khom lưng
Để
con được vịn, khỏi cần nhón chân
Đứng
bên mẹ, bé vô cùng
Thấy
như tay mẹ sẵn sàng dẫn con...” (Lan Can Mẹ)
“Lan
can ba, ba thẳng lưng
Ba
dạy con, chân đạp bùn mà đi
Con
nhón chân, con đưa tay
Con
vịn ba với cái đầu
ngẩng
lên !...” (Lan Can Cha)
Nói,
thể thơ chỉ là hình thức, tải đến người đọc là những ngôn từ. Thơ hay hoặc dở, cũ hay mới, chẳng liên quan gì đến thể loại. Thế
nhưng viết về những người mẹ, người vợ, có lẽ không thể thơ nào
được sử dụng nhiều bằng lục bát. Và Trần Hoài Thư cũng không nằm
ngoài cái lẽ đó. Bài Vịn Em, được ông viết khi vợ bị đột quỵ phải
đưa vào nhà thương, nhà dưỡng bệnh. Với phép so sánh tu từ, người vợ
hiện lên như Chúa, như Phật trong lòng Trần Hoài Thư. Cái đoạn trường
khổ đau ấy, dường như vợ ông đã giành hết cho mình. Nó như một sự
khai sáng và giải thoát cái linh hồn nhà văn, người lính trận Trần
Hoài Thư vậy. Tôi nghĩ, đây là một trong những bài thơ hay, chân thực
và cảm động nhất trong tập lục bát này:
“Lòng em là cả trăng rằm
Lòng
tôi trăng tối như nhằm ba mươi
May
nhờ tôi được dựa hơi
Nên
lòng cũng nhẹ, ít nhiều hồi tâm
------
Lời
Phật em tụng hằng đêm,
Nghe
chừng như thể em cầu cho tôi
Cho
tôi, bớt điếc bớt mù
Bớt
sân si, bớt dâm tà tham lam...
--------
Em
đi để nhận đoạn trường
Xe
lăn định mệnh, chiếc giường nghiệp oan
Hay
là em chuộc dùm chồng
Như
xưa Chúa đã chuộc dùm thế gian ?“
Trần
Hoài Thư đã viết nhiều về tình bạn, tình đồng đội trong văn xuôi của
mình, nhưng quả thật đến tập thơ này, cái tình bạn ấy, mới cho tôi
đến đỉnh cảm xúc, khi đọc. Tình bạn được nhà thơ hình tượng hóa
một cách cụ thể. Và chiếc lan can kia đâu phải chỉ là nơi những cánh
tay vịn tựa nhau, mà còn là những sẻ chia vui buồn. Tuy viết theo thể
lục bát, nhưng từ ngữ trong thơ Trần Hoài Thư mộc mạc, với những
khẩu ngữ thường nhật. Đây cũng đặc điểm nổi bật trong lục bát Trần
Hoài Thư. Vịn Bạn là một bài thơ như vậy của ông:
“Lan
can bạn - vịn thân tình
Để
còn thấy được cuộc đời dễ thương
Chai
rượu quí chắc phải buồn
Nếu
không có bạn, ai người cụng ly ?”
Không
rõ cái lịch sử tình bạn của các bác nghệ sĩ miền Trung, xứ Huế
như thế nào, nhưng trước đây đọc nhà văn Lữ Quỳnh và lúc này đọc
Trần Hoài Thư cùng viết về họa sĩ Đinh Cường, quả thật tôi không kìm
được cảm xúc của mình. Có thể nói, không chỉ có Lữ Quỳnh, mà Trần
Hoài Thư cũng vậy, ông đã dành hình ảnh, câu thơ đẹp nhất để viết
về người bạn quá cố. Dường như, nó khác hẳn cái khẩu ngữ thường
nhật khi ông viết về bạn bè khi còn bù khú bên nhau. Vẫn sử dụng
phép tu từ, với lối hoán dụ, bài thơ Còi Tàu Hụ Nhớ Đinh Cường cho
ta thấy rõ tài năng của Trần Hoài Thư không chỉ ở trong lãnh vực văn
xuôi:
“Kể
từ bạn bỏ đi xa
Con
tàu vẫn đến nhà ga mỗi ngày
Còi
tàu vẫn vút lên mây
Cớ
sao thưa bạn hôm nay quá buồn!
Tàu
ngừng, chở tiếp hoàng hôn
Làm
sao chở hết nỗi buồn của tôi?”
Những
quán hàng dân dã, với những căn nhà liêu xiêu đầy mộng mị, nhưng là
một phần ký ức quan trọng đối với Trần Hoài Thư. Ký ức ấy, đã
được ông hóa vào thơ, bằng chân dung bạn bè Khu Sáu- Bình Định, thời
bom rơi đạn nổ. Tuy buồn, nhưng những nét vô tư vẫn hiện về. Có thể
nói, Trần Hoài Thư luôn dành cho bạn những trang thơ đẹp và trân trọng
nhất, kể cả những người không đồng chí hướng. Với Thái Ngọc San, không
phải là bài thơ hay trong thi tập này, nhưng đã cho người đọc hiểu
thêm nhân cách sống Trần Hoài Thư:
“Từ
ngày bạn bỏ hàng quân
Có
Khu Sáu mở rộng lòng chở che
Ngày
ngày thuốc lá cà phê
Chẳng
cần thắc mắc mô tê bạn thù
Bạn
chửi tôi lính đánh thuê
Tôi
giận quá đập chai bia xuống bàn
Bạn
hãnh diện thắng miền Nam
Tôi
hãnh diện vì cháu con nên người...”
Không
chỉ văn xuôi, mà cả những bài thơ viết về thời chiến là những trang
viết hay nhất của Trần Hoài Thư. Nếu Điếu Thu, một bài thơ được cho
là phá cách hay nhất được viết trong thời gian gần đây, thì Nước Lên
là bài thơ hay và đẹp nhất, viết trong một lần hành quân tác chiến
của ông. Cùng với thủ pháp nghệ thuật ngắt nhịp, xuống dòng, đọc
Nước Lên, tưởng như mình đang đứng trước một bức tranh thủy mặc về
hoàng hôn, mang mang nét hoài cổ vậy:
“Nước
lên, trời thổ mật vàng
Nửa
lan mây núi
nửa tràn bãi sông
Nước
lên kéo mặt trời gần
Khanh
vàng lai láng
một dòng vàng khanh
------
Nước
lên, bờ tả đã mờ
Chỉ
còn bờ hữu nắng vàng níu chân
Nước
lên trời cũng tối dần
Quân
qua bỏ lại một dòng quạnh hiu”
Có
thể nói, Vịn Vào Lục Bát là tập thơ buồn. Bởi, nó là hiện thân
của cuộc đời nhà văn người lính, tù nhân Trần Hoài Thư. Nếu bác nào
thần kinh yếu, không nên đọc tập thơ này, vì sẽ bị ám ảnh, gây ra
mộng mị, dẫn đến mất ngủ. Thật vậy, một loạt bài Mục Tiêu Một,
Mục Tiêu Hai….tuy viết đã lâu, và chiến tranh đi qua trên bốn mươi năm,
nhưng đọc lên vẫn thấy mới, làm nhức nhối lòng người:
“Bữa
cơm đã dọn ra rồi
Người
Ô-đô nói ngậm ngùi bên tai:
“Hôm
nay lại thiếu thằng Tài
Em
bới một chén mời về ăn chung…”
-----
Khẩu
súng cắm giữa gò bồi
Hai
hàng quân đứng ngậm ngùi tiễn đưa…”( Mục tiêu 5)
Gấp
cuốn Vịn Vào Lục Bát lại, và dường như có tiếng vọng vẫn còn đọng
lại trong tôi: “Trên nhành một lũ quạ đen/ Oác lời cho thảm điệu kèn điếu thu”
Nhưng tôi hoàn toàn không tin, đây là tiếng vọng lên cuối cùng của Trần
Hoài Thư. Bởi, tuy là điểm tựa cuối cùng, nhưng lục bát cũng như
tình yêu và nghị lực sống của ông còn nồng nàn, mãnh liệt
lắm.
Leipzig
ngày 3-8-2017
Đỗ
Trường